DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HOÁ ĐỀN KINH ĐIỂN, XÃ TÂN VIÊN, HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG.

12 02 2025

in trang

DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HOÁ ĐỀN KINH ĐIỂN, XÃ TÂN VIÊN, HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Kinh Điền là một trong 5 thôn của xã Tân Viên, huyện An Lão, ngoại thành Hải Phòng: Theo truyền thống duy danh của người Việt, gọi tên công trình chung của cộng đồng làng xóm, kèm theo địa danh đã sản sinh ra công trình đó - một nét rất phổ biến trong các công trình văn hoá - tín ngưỡng, tôn giáo, vốn gắn bó mật thiết với người dân sở tại, xây dựng, bảo vệ, tu bổ, trong suốt quá trình tồn tại của công trình đó (có thể là đền, đình, chùa, miếu...). Đền Kinh Điền cũng không nằm ngoài quy luật phổ biến đó. Đây là nơi nhân dân địa phương tôn thờ hai nhân vật lịch sử, đồng thời là hai mẹ con: Thánh Mẫu Chiêu Thai và con trai là Ngũ Đạo, tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng; có công lớn được triều đình phong thưởng. Sau khi hoá, được nhiều vua phong sắc, chuẩn y cho dân địa phương lập nơi phụng thờ.

Tổng diện tích khuôn viên của Đền là: 2096 m2, trong đó tòa Đại Đền chính là 180 m2, công trình phụ trợ là 50 m2, sân là 500m2.

Qua trình hình thành của các làng xã ở xã Tân Viên trong lịch sử - Năm Đinh Mão (1807) tổng Du Viên có 5 xã là Du Viên, tên nôm là Dù. Ly Câu có tên nôm là Sẽ. Lương Câu có tên nôm là Nguyễn. Thượng Cậu có tên nôm là Đạt. Riêng Kinh Điền, nơi có ngôi đền mang tên làng xã địa phương, không thấy có tên nôm.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tại xã Tân Viên đã diễn ra trận chiến đấu anh dũng của bộ đội địa phương tỉnh Kiến An, ngày 21/4/1953, nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương đã sát cánh cùng bộ đội chống trả quyết liệt, mở đường phá vòng vây dày đặc của địch, để quân chủ lực rút về vùng tự do phía Tiên Lãng. Do những cống hiến to lớn của chính quyền và nhân dân xã Tân Viên trong sự nghiệp đấu tranh Cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời làm tròn nghĩa vụ chi viện cho tuyền tuyến lớn miền Nam. Năm 1998 xã đã vinh dự được đón nhận danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực Lượng Vũ Trang do Nhà nước phong tặng.

Căn cứ nội dung hai cuốn thần tích chữ Hán - một ở đền Kinh Điền, một ở gia đình cụ Ninh Văn Phô lưu giữ. Cả hai văn bản đều được Hội đồng lịch sử thành phố Hải Phòng biên dịch và giám định năm 1989.

Hai cuốn thần tích có liên quan đến nhân vật lịch sử được tôn thờ tại di tích đền Kinh Điền hiện nay, cùng được soạn vào niên hiệu Hồng Phúc, năm đầu (Mậu thân 1572). Một cuốn do Hàn Lâm Đông các đại học sỹ Nguyễn Bảo soạn được bộ lễ sao vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư (giáp Thìn 1739). Một cuốn do Hàn lâm viện Đông Các đại học sỹ Nguyễn Bính soạn, được quản giám bách thần Nguyễn Hiền sao năm Vĩnh Hựu thứ ba (Ất Mão 1738).

Cuốn thần phả do Nguyễn Bảo còn viết rõ: Bà Chiêu Thai và con là Ngũ Đạo tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng, có công lớn, được phong thưởng chức; về sau hoá được nhiều triều vua phong sắc, chuẩn cho địa phương nơi sở tại được phụng thờ.

Ngoài hai cuốn thần phả được lưu giữ, Tại địa bàn xã Tân Viên còn sưu tầm, lưu giữ được 8 đạo sắc phong của các triều vua Thành Thái năm đầu (Kỷ Dậu 1889), 3 sắc đời Duy Tân năm thứ 3 (1909) và đời Khải Định năm thứ 9 (1925). Nội dung các đạo sắc đều gia phong mỹ tự, nhân dân Kinh Điền từ ngày xưa vẫn gọi mẹ con Đức Thành Hoàng là Thánh Tử, Thánh Mẫu; ghi nhận công lao các vị là người hộ quốc, tỷ dân (giúp nước, cứu dân).

Tương truyền, đền Kinh Điền ngày xưa nằm ở vị trí trung tâm làng xã, quy mô bề thế, được xây dựng bằng vật liệu truyền thống như vữa, mật, gỗ, đá ... Trải qua chiến tranh và độ dài của thời gian gặp nhiều cảnh bão tố, mưa xa, làm hầu hết các công trình thờ cúng của cộng đồng làng xã đều bị dân tu tạo vào thời Lê Trung Hưng (cuối thế kỷ 17) đến thời Gia Long (1802 - 1819) đã được tu tạo một số lần. Bóng dáng ngôi đền cũ không còn nữa, dấu vết để lại là nền móng ngôi đềnvới hàng chục hòn chân tảng bằng đá vôi cùng vô số viên gạch vồ thời Lê có kích thước lớn (57 x 23x 6cm), còn sót lại trên nền đất cũ, một cấu trúc kiểu chữ nhị - 5 gian tiền và 3 gian hậu cung đã bị đổ nát. Qua những chân tảng đá và dấu vết nền móng này chúng ta có thể hình dung được quy mô to lớn của công trình xưa.

Hiện tại, đền Kinh Điền là một kiến trúc kiểu chữ đinh: 3 gian tiền đền - 2 gian hậu cung. Toà tiền đường được kết cấu bằng 4 vì cột, có kết cấu vì nóc kiểu giá chiêng, hai hồi chái xây đắp kiểu "tường hồi bít đốc". Tường hồi - trụ đấu nóc kiểu tay ngai, nóc đỉnh khung đèn lồng, mái đắp "lưỡng long chầu nhật".

Hai gian hậu cung có lối đi hai phía tả - hữu, nơi đặt khám tượng hai vị Thành Hoàng. Trang trí đắp vẽ bờ nóc gian hậu cung kiểu tam sơn. Ngôi đền đã trải qua nhiều tu sửa, năm Bảo Đại thứ 7 (1933). Đợt tu bổ gần đây nhất là vào năm 1997 - 1998. Trải qua thời gian tồn tại trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chiến tranh tàn phá, cảnh quan của ngôi đền bị xâm hại, một số đồ tế tự bị thất lạc. Với đạo lý "uống nước nhớ về cội nguồn", ý thức bảo tồn di sản văn hoá dân tộc, truyền thống quật cường của cha ông. Nhân dân Kinh Điền - Tân Viên đã đóng góp nhiều công sức, tiền của tu tạo lại nơi thờ tự xưa. Nhìn chung, công trình hiện tồn có quy mô nhỏ bé hơn trước nhưng nếp cũ vẫn được bảo tồn, hàm chứa một không gian văn hoá cổ truyền của nhân dân địa phương. Ngoài sân lát gạch rộng, cổng tường xây cột trụ nóc trang trí kiểu đèn lồng bao quanh khu vực di tích, có ngôi đền cổ dựng trên nền đất cũ cùng hai hàng bia cổ ghi nhận những lần dân làng quyền cúng xây dựng đền Kinh Điền.

Nghi lễ ngày hội được nhân dân địa phương ghi nhớ, đồng thời quy định rõ trong thần tích: Ngày sinh Thánh Tử, Ngũ Đạo; mồng 1 tháng 2 - lễ phẩm ở ban trên, dùng cỗ chay: Hoa quả. Ban dưới, dùng trư, suy, tửu (lợn, voi, rượu). Trước đây ca múa 10 ngày.

Ngày Thánh hoá: Mồng 10 tháng 11 (cả hai mẹ con) lễ phẩm như lệ cổ gồm: bánh chưng, bánh dày. khi thánh lễ, cấm dùng các sắc phục màu tía, màu vàng. các tên huý phải kiêng gọi: Ngũ Đạo, Trần Thị Trinh. Trước đây các xã trong tổng cũ, tổ chức hội làng vào mồng 9 và mồng 10 tháng 2 âm lịch. Ngày mồng 9 vào lệ: Các làng đều có tế lễ, ngày mồng 10 đại lễ: Các làng đều rước thần vị, rước kiệu. Trước có quy định ngày mồng 9 Kinh Điền rước, Du Viên, Thượng Câu tế, ngày mồng 10 thì ngược lại. Từ ngày 11 trở đi, làng mở hội hát chèo ở từng làng.

Sinh hoạt lễ hội là nét đẹp trong văn hoá cộng đồng làng xã, ngoài sự cộng cảm mọi lứa tuổi, tầng lớp cư dân đều có dịp bày tỏ lòng ngưỡng mộ, nhớ ơn những người có công với nước, với dân, uống nước, nhớ về cội nguồn. Dưới ánh sáng của phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, sinh hoạt lễ hội ở đền, chùa Kinh Điền ngày nay đã được các cấp chính quyền quan tâm, chỉ đạo cho sát thực với hoàn cảnh hiện nay, nhằm mục đích bảo tồn, phát huy những di sản văn hoá mà tổ tiên để lại, xây dựng quê hương đổi mới, mạnh giàu về kinh tế, văn hoá, giáo dục, phát triển.

Đền Kinh Điền xã Tân Viên được UBND TP Hải Phòng xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp Thành phố tại quyết định số 2848/QĐ-UBND ngày 21/11/2002 của UBND thành phố Hải Phòng.

Đền Kinh Điền là một công trình kiến trúc - Nghệ thuật cổ, một trung tâm sinh hoạt văn hoá, lễ hội truyền thống của nhân dân từ nhiều đời nay. Đền là nơi tôn thờ, tưởng niệm hai nhân vật lịch sử có công tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng - Thế kỷ thứ nhất, chống quân Đông Hán xâm lược nước ta.

Ngôi đền Kinh Điền xã Tân Viên cùng với đình Cựu Đôi (huyện Tiên Lãng) thờ Đào Quang, đình Quỳnh Cư (quận Hồng Bàng) thờ Lệnh Bá - Chính Trọng đền Nghè (quận Lê Chân) thờ nữ tướng Lê Chân phần tạo nên một hệ thống những di tích về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng tại vùng Duyên Hải Hải Phòng.

Admin

Thong ke