Đền Mẫu Vừng phường Hải Sơn – Đồ Sơn

27 03 2025

in trang

Tương truyền, Thánh Mẫu Liễu Hạnh là Tiên Chúa Quỳnh Nương, con gái của Ngọc Hoàng Thượng Đế, phạm lỗi làm rơi chén ngọc trong một buổi Lễ chầu Thiên Đình nên bị đày xuống trần gian thác sinh vào nhà họ Lê ở thôn Vân Cát.

Ba năm sau hết hạn trích giáng, được Ngọc Hoàng cho gọi về trời, nhưng duyên trần còn nặng, Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy vậy thương tình phong cho Nàng danh tính là Liễu Hạnh Công Chúa và cho phép Nàng trở lại hạ giới.

Sẵn có phép màu biến hóa, Công Chúa vân du ở khắp mọi miền sơn thủy trên nước Nam và thường hóa phép trừng phạt kẻ ác, gia ân người hiền…Công Chúa đã giúp đỡ các học trò nghèo đi thi, đã từng hóa phép dạy bảo dân chúng vùng Tam Điệp trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, khuyên nhủ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan khởi dựng lại chùa Bắc Lệ, Đền Tiên (Lạng Sơn) và đã cùng đàm đạo thơ văn với danh sĩ Phùng Khắc Khoan ở Tây Hồ (Hà Nội).

Sau đó, Công Chúa vào Kẻ Sóc - huyện Đông Thành, một vùng đất linh địa của tỉnh Nghệ An kết duyên với một thư sinh nhà nghèo nhưng tài giỏi. Chồng thi đỗ làm quan thì Công Chúa lại đến kỳ hạn phải về trời. Nhưng do quyến luyến cuộc sống nơi trần thế, Công Chúa Liễu Hạnh lại xin Ngọc Hoàng một lần nữa được xuống trần gian.

Lần thứ 3 giáng trần, Tiên Chúa được Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đem theo hai hầu Thị nữ là Quế Nương và Nhị Nương bay xuống vùng Phố Cát, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa - một nơi có phong cảnh sơn thủy hữu tình, Tiên Chúa hô phong hoán vũ lập nên ngôi điện nguy nga, tráng lệ để ngự.

Ở đây, Tiên Chúa tiếp tục hiển linh, trừng phạt những kẻ phàm phu tục tử, khuyến thiện, trừ ác, khả năng biến hóa của Tiên Chúa vô biên, tiếng tăm của Tiên Chúa lan rộng khắp trong Nam, ngoài Bắc, đông đảo dân chúng tôn sùng, kính phục.

Vì có nhiều quyền năng biến hóa, Thánh Mẫu đã từng góp công âm phù cho Vua Lê đánh giặc ngoại xâm, đã giúp Chúa Trịnh trừng phạt những kẻ phản nghịch nên được Triều đình Lê, Trịnh phong Thần, được tôn là Mã Hoàng Công Chúa, rồi Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương. Đến Triều Nguyễn (1802-1945), Nữ thần Liễu Hạnh lại được phong sắc “Thượng thượng đẳng phúc thần”. Từ đó, Nữ Thần Liễu Hạnh trở thành bậc siêu thần, luôn ban ân đức cho mọi người nên được nhân dân tôn là Thánh Mẫu. Sau đó lại được Triều Nguyễn gia tăng mỹ tự là “Mẫu Nghi Thiên Hạ” (Mẹ của muôn dân) và được ghi vào Tự điển. Thánh Mẫu Liễu Hạnh được nhân dân tôn phong với cả 3 tư cách: là Thánh – Thần – Phật. Đặc biệt trong tâm thức văn hóa tâm linh Việt Nam, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được tôn vinh cùng với Thánh Tản Viên, Thánh Gióng và Thánh Chử Đồng Tử là bốn vị Thánh bất tử của Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam.

Dân tộc ta đã có những huyền thoại rất đẹp về những người mẹ như: huyền thoại về mẹ trời, mẹ núi, mẹ sông, mẹ biển…. những người mẹ ấy trong dân gian đều giữ một vị trí vô cùng quan trọng như:  trông coi núi non, sông nước, biển khơi, tài nguyên khoáng sản… thì Mẫu Liễu Hạnh lại là biểu tượng cho sức sống tự do, lòng nhân đạo và công bằng xã hội. Mẫu biết làm thơ, am hiểu đạo lý, cầm quân đánh giặc, chữa bệnh cứu nhân độ thế. Mẫu là tượng trưng cho nét đẹp của người mẹ, người chủ, một vị tướng và một vị thánh. Mẫu Liễu Hạnh được tôn thờ từ thực tế và trở thành tâm linh, là cõi đất, cõi trần gian, những cõi gần gũi với con người. Mẫu Liễu Hạnh có hiếu theo Nho, có tâm theo Phật, có phép thuật theo đạo. Tất cả các giá trị văn hóa ấy được dung hòa và tồn tại, ẩn chứa trong tâm đức và sức mạnh của Mẫu. Vì vậy, khắp Bắc, Trung, Nam Đạo Mẫu được hình thành, trường tồn gần 4 thế kỷ nay và bất chấp mọi uy lực, luật lệ của Vua, Chúa. Đạo Mẫu đã đi vào lòng của mỗi người dân nước Việt. Đó mới thực sự là biểu tượng của tín ngưỡng của dân gian đối với Thánh Mẫu Liễu Hạnh – Mẫu Nghi Thiên Hạ - Mẹ của muôn dân. Sự bất tử của Mẫu Liễu Hạnh chính là chỗ đó.

Trong cảm quan của nhân dân, chúng ta tìm thấy ở Thánh Mẫu có đủ phẩm chất, tư cách của một vị Thần, Tiên và đức Phật. Vì thế, nhiều nơi nhân dân đã lập Đền thờ Mẫu, các trung tâm lớn thờ Mẫu Liễu đều gắn liền với các huyền thoại giáng trần của Bà như Phủ Dầy – Nam Định;  Bắc Lệ - Lạng Sơn; Phủ Tây Hồ - Hà Nội. Và Đền Mẫu Vừng – Đồ Sơn cũng vậy, tương truyền rằng: Đền Vừng còn gọi là Miếu Vừng, hay Đền Mẫu Vừng, tên úy là Nhân Thọ Linh Từ được lập trên bãi dâu tằm trước cửa sông đổ ra biển (sông đã bị lấp) nay là tổ dân phố Đông Tiến, phường Hải Sơn. Trước cửa Đền là một nhánh sông chạy dài từ cổng xăm vào tới chân núi, thông liền với biển ( không rõ từ đâu). Đền được xây dựng cuối thời Lê Trung Hưng, khoảng năm 1700 tới 1775. Tới năm 1929, được Triều đình nhà Nguyễn sắc phong 4 chữ: Trí-Nghĩa-Khôn-Nguyên và cho trùng tu xây dựng theo lối chữ Đinh.

Theo Thuyết xưa Đền Vừng thờ Thánh Mẫu tương truyền vào một đêm mưa gió,có 3 khúc gỗ mục trôi ngược từ biển vào bến dâu tằm, bỗng đâm mầm thành cây nở hoa đỏ rực một góc sông, lúc bấy giờ có nhà quan lại chưa có con trai, được Thần báo mộng ra bãi dâu tằm trước 3 cây hồi sinh lập miếu cầu tự. Trong năm, người đó sinh con, tiếng lành đồn xa, nhân dân khắp nơi, thuyền bè qua lại đều cúc cung cầu đảo và đều được sự linh nghiệm bảo trợ của Thần. Nhân dân cầu đảo, Thần đã hiển linh, xưng Thánh hiệu Đệ Nhất Thiên Tiên Liễu Hạnh Công Chúa và từ đó trở đi, nhân dân thờ phụng, Triều đình phong sắc thành vị Thần Thượng đẳng tối linh. Trải qua những năm tháng chiến tranh và sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi đầu sóng ngọn gió. Đền hiện nay chỉ còn lại một số chi tiết chạm khắc, bát hương đồng đúc, bát hương sứ và chuông đồng của Triều Nguyễn. Năm 1990, Đền đã tặng Chùa Tháp pho tượng A di đà cổ bằng đồng không rõ niên đại. Ba cây gỗ dạt về nay trở thành cây đại thụ, năm 1986, cây lộc vừng đại thụ bị gió bão làm đổ, chỉ còn 13 nhánh trên gốc cũ, nay mọc lên thành những cây to đẹp, đó là cây lộc vừng trước cửa đền hiện nay, xóm được mang tên là xóm Vừng thuộc phường Vạn Sơn, Thị xã Đồ Sơn, nay là TDP Đông Tiến, phường Hải Sơn, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.

 NHÂN THỌ LINH TỪ

MẪU ĐỆ NHẤT THIÊN TIÊN

THƠ TỰ CỦA MẪU

THỦ NĂNG ĐƯỠNG MỘC, MỘC NĂNG THÀNH

ĐẮC NHỊ NHÂN HỀ MỘC TÀI VINH

MỘC TẠI CÔNG BIÊN AN ĐẮC TÚ

NGUYỆT CƯ CHÙA HẠ BẤT NĂNG MINH

TRẦN GIAN DỤC SỨC THĂNG THIÊN KẾ

THỜI ĐÁO TƯ CẦU TUYỆT ĐỊA LINH

KIM NHẬT TUY Ô TRẦN THẾ NGỮ

VẠN NIÊN HƯƠNG HỎA CÁNH NHƯ SINH

                                                     

                                           BÀI NÔM

DƯƠNG THỔ VẬN XUÂN TAM CHI NHUẬN

KHÁ KHEN NGƯỜI MẠO NHẬN THIÊN UY

DẠ GAN TÚ TỬ TUY TÙY

GIANG TẬP ĐÁO MIẾU ĐƯỜNG THI THƯỢNG

THỦ TAM VY UY LINH THẦN TƯỢNG

TỊNH ĐỒNG CHUNG NHẤT QUẢ NHI ĐỒNG

TÁI TƯƠNG HỒI TÂY SỨ HỘI ĐỒNG

TẦM THỦY ĐỂ BỒI CHI THỔ THẠCH

TA THỰC ĐÁNG THẦN TIÊN CHI KHÁCH

BỜI TÀI TÀI NÊN PHẢI GIÁNG SINH

Ở CHỐN NÀY AI KHÔNG BIẾT MÀ KHINH

CŨNG CÓ LÚC UY LINH ĐẠI TỨ

TỪ KHI LẬP MIẾU ĐƯỜNG PHỤNG SỰ

CẦU TẤT ỨNG HỀ CẢM TẤT THÔNG

ĐẪU AI NGU DỐT CŨNG BẰNG LÒNG

KHÔNG CÓ NHẼ HẠI TRẦN GIAN CHI NẮM TÁ

SÁCH CÓ CHỮ CHI NGÃ BẤT CHI NGÃ

PHÚ NGÔ HỰU TÁI NGÔ

CÓ NHẼ NÀO BỰC VỚI PHÀM PHU

HÃY GƯỢNG NHẬN XEM SAU NÀY MỚI BIẾT

ĐỪNG MƯỢN TIẾNG MÔN TRUNG PHIỆT DUYỆT

DƯỚI CON NGƯƠI AI CŨNG NHƯ KHÔNG

XEM GƯƠNG NGƯỜI THIÊN TỨ VẠN TRUNG

KHI THẾ KHUẤT CŨNG KHÔNG NGƯỜI THĂM VIẾNG

CAY MỘC CỬA CÔNG ĐỪNG MƯỢN TIẾNG

CÂY KHÔNG TƯỚI NƯỚC CHỚ RƯỜM RÀ

THỜI NAI TA LẠI BIẾT TA.

 

          Tương truyền Bài thơ trên Ngài đã ban khi về Giáng tại đền, Ngài là một vị Thánh có chức sắc Vua ban, dân làng và khách thập phương rất tôn sùng, ngày về trời bỏ lại chiêc hài ( nay là Đền Phủ Giầy). Đền Mẫu Đồ Sơn là điểm danh thắng Ngài đã chốt lại trước khi về Trời. Ngày kỵ của ngày là ngày 03 tháng 03 âm lịch

 Vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Đền cũng là nơi ẩn nấp, hoạt động của cán bộ Cách Mạng địa phương. Lễ hội Đền Mẫu Vừng được tổ chức từ ngày mồng 1 đến ngày 15 tháng 3 âm lịch hàng năm.( ngày chính hội vào ngày 03 tháng 03 âm lịch hàng năm). Mọi người con dân đất Việt đều ghi nhớ câu tục ngữ: “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”. Điều đó không chỉ phản ánh nét sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của dân gian mà còn cho thấy sự tri ân và tấm lòng tôn trọng đạo hiếu đối với Tổ tiên, đối với người đã sinh thành, nuôi dưỡng, che chở cho con cái như người Mẹ.

Admin

Thong ke