Câu chuyện thời hoa lửa - Chi đoàn trường Mầm non 8-3 Phường Ngô Quyền

16 11 2025

in trang

Triển khai đề án của Ban Bí thư Trung ương Đoàn và chỉ đạo của Thường trực Thành đoàn về lưu giữ và tuyên truyền các câu chuyện lịch sử với chủ đề "Câu chuyện thời hoa lửa", Ban Thường vụ Đoàn phường Ngô Quyền triển khai đề án tại các cơ sở Đoàn

Chào mừng kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh 02/9, Chi đoàn trường Mầm non 8-3 xây dựng chuỗi các hoạt động chào mừng kỷ niệm bao gồm: nói chuyện truyền thống giữa các đồng chí cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 240 với đoàn viên, thiếu nhi về các câu chuyện lịch sử; tham quan Bảo tàng Hải quân và các địa chỉ đỏ.

Câu chuyện được các đồng chí cán bộ Trung đoàn 240 chia sẻ với đoàn viên, thiếu nhi về Bác Hồ tại chiến khu Việt Bắc: Chuyện kể rằng, có lần đồng chí Lê Giản, Tổng Giám đốc Nha Công an Trung ương đưa cố vấn công an Trung Quốc đi thực tế tại khu “Dinh Phủ Chủ tịch” ở ATK Định Hóa. Dinh Phủ Chủ tịch là một cái lán bằng tre nứa rộng khoảng 10 m2 chia 2 tầng, dưới là nền trống, có cái bàn nhỏ với ghế, thường khi cần Bác Hồ ngồi đánh máy hoặc đọc sách ở đó. Tầng trên là sàn bằng phên tre nứa. Mái lợp lá gồi. Phòng trống, không có giường, bàn, cũng chẳng có ghế, ngủ say trên sàn có chiếu trải. Vách trổ cửa trước, cửa sau, có thang tre để lên xuống.

Ngạc nhiên khi thấy Hồ Chủ tịch lại chấp nhận một cuộc sống quá giản dị như thế, đồng chí cố vấn nói với Bác: “Tầng dưới nơi Bác làm việc ban ngày thì trống rỗng giữa rừng, ngày mưa to, gió lớn hoặc trời nắng chói chang thì che chở thế nào?”. Bác bình tĩnh nói: “Đồng bào Việt Nam ngày nay rất tôn trọng Đảng Cộng sản Việt Nam... Chúng tôi rất tin cậy đồng bào chúng tôi một lòng sắt son theo Đảng, ủng hộ Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ, đảng viên. Đồng chí từ căn cứ của Nha Công an đến đây không thấy một trạm gác, không bị xét hỏi giấy tờ là chuyện không lạ vì đồng chí đi cùng với đồng chí Lê Giản, cho nên tất nhiên không bị xét hỏi đã đành, giả thử có kẻ xấu đến tấn công thì chắc nó chẳng thoát tay quần chúng bắt giữ”.

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, do tình hình chiến sự diễn biến phức tạp, để bảo đảm an toàn, Người thay đổi nhiều chỗ ở. Với niềm tin mạnh mẽ vào quần chúng, nơi Người ở “trên có núi; dưới có sông; có đất ta trồng; có bãi ta vui; tiện đường sang Bộ tổng; thuận lối tới Trung ương; nhà thoáng, ráo, kín mát” và dứt khoát không thể thiếu yếu tố quan trọng “gần dân, không gần đường”. Theo Người, “bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, ta phải liên lạc mật thiết với dân, phải làm cho dân mến, dân tin”.

Với chỉ đạo nhanh chóng rút lực lượng lên ATK của Hồ Chủ tịch, cho đến đầu tháng 4/1947, việc dời chuyển các cơ quan Đảng và Chính phủ lên Việt Bắc đã hoàn thành. Ngoài ra khoảng 40.000 tấn máy móc, thiết bị, nguyên liệu cũng đã dùng để xây dựng được 57 cơ sở sản xuất quân giới phục vụ kháng chiến. Ta cũng đã di chuyển cả các máy in báo, tiền, cơ sở vật chất của bệnh viện, trường học, đài phát thanh lên chiến khu an toàn. Bộ Tổng tham mưu chịu trách nhiệm phân chia các khu vực trong ATK cho các cơ quan Trung ương, Chính phủ, Chủ tịch phủ, Bộ Tổng chỉ huy và các cơ quan đoàn thể khác.

Ngày 1/4/1947, Bác rời Phú Thọ di chuyển đến làng Xảo, Hợp Thành, Sơn Dương (thuộc châu Tự Do, Tuyên Quang), bắt đầu những năm tháng chỉ đạo cách mạng ở Thủ đô kháng chiến. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng về kháng chiến kiến quốc.

Trong những năm kháng chiến gian khổ, nhân dân Việt Bắc cùng với bộ đội đã hết lòng bảo vệ chiến khu, anh dũng chiến đấu với quân thù. Mỗi tên bản, tên núi, tên sông nơi đây đều gắn liền với những sự kiện, chiến công trong kháng chiến. “Cách mệnh do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi”. Với sự lựa chọn Việt Bắc làm căn cứ địa, cuộc kháng chiến chống Pháp đã xây dựng được chỗ đứng chân vững chắc. Đó cũng là một trong những cơ sở quan trọng để Đảng ta thực hiện đường lối “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Vì thế, tiến trình của kháng chiến đã có thay đổi trong so sánh lực lượng giữa ta và địch: Ta dựa vào núi rừng Việt Bắc càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn và từng bước giành quyền chủ động; còn địch ngày càng bị động đối phó và càng thất bại. Nhờ vậy, cuộc kháng chiến đã kết thúc bằng trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.

Chi đoàn đã xây dựng video tổng hợp các hoạt động 

Admin

Thong ke