ĐÌNH KHÚC TRÌ - DI TÍCH LỊCH SỬ KHÁNG CHIẾN
28 02 2023
in trangNhững di sản hiện còn, đình Khúc Trì đã khẳng định được những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của mình. Đó là tượng thờ, đồ thờ, bản thần tích mang đậm nét phong cách nghệ thuật thời Nguyễn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
I. TÊN GỌI DI TÍCH (NAME OF REALIZE)
Ngôi đình làng Việt luôn là hình ảnh đẹp trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam, cây đa, giếng nước, sân đình gợi cho ta khung cảnh thanh bình trong mỗi làng quê. Ngôi đình, nét tiêu biểu của kiến trúc gỗ cổ truyền Việt Nam.
“Qua đình ngủ nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Mỗi ngôi đình là một "trung tâm" kinh tế - chính trị, nơi tổ chức lễ hội của làng. Trong những ngày lễ hội ấy, như một trang sử mới của làng, được ghi dấu nhớ về cội nguồn, chuyển giao văn hóa, sáng tạo văn hóa và liên kết cộng đồng. Đình Khúc Trì là một trong những công trình văn hóa tâm linh, phản ánh truyền thống văn hóa, tín ngưỡng bản địa của nhân dân làng Khúc Trì xưa và phường Ngọc Sơn ngày nay. Tên gọi di tích luôn gắn liền với địa danh nơi di tích được xây dựng nên. Do vậy đình Khúc Trì là tên gọi của di tích này.
The Vietnamese village communal house is always a beautiful image in the minds of every Vietnamese, the banyan tree, the well, and the communal yard evoke a peaceful scene in each village. The communal house, a typical feature of Vietnamese traditional wooden architecture.
“Go to sleep with hats to look after the family
How many tiles love me as much"
Each communal house is an economic - political "center", where the village's festival is held. During those festivals, like a new page in the village's history, it is marked with its roots, cultural transfer, cultural creation and community connection. Khuc Tri Communal House is one of the spiritual and cultural works, reflecting the cultural traditions and indigenous beliefs of the people of the old Khuc Tri village and the present day Ngoc Son ward. The name of the monument is always associated with the place where the monument was built. Therefore, Khuc Tri communal house is the name of this relic.
II. ĐƯỜNG ĐẾN DI TÍCH (THE ROAD TO THE RULES)
Từ trung tâm thành phố Hải Phòng, bằng các loại hình phương tiện giao thông đường bộ, đi qua cầu Niệm, đến vòng xoay Quán Trữ, đi theo đường Comben về hướng cầu Kiến An, theo quốc lộ 10 cũ về hướng An Hỷ đến UBND TP. của phường Ngọc Sơn để được hướng dẫn cụ thể. Di tích cách chân cầu Kiến An khoảng 300m và cách trung tâm thành phố gần 10 km.
From the center of Hai Phong city, by means of road transport, go through Niem bridge, go to Quan Tru roundabout, follow Comben street towards Kien An bridge, follow old national highway 10 towards An Hy. City People's Committee of Ngoc Son ward for specific instructions. The relic is about 300m from the foot of Kien An bridge and nearly 10 km from the city center.
III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KHẢO SÁT LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG, NHÂN VẬT LỊCH SỬ VÀ SỰ KIỆN KHÁNG CHIẾN XẢY RA TẠI CƠ CẤU. (SOME LOCAL HISTORY SURVEY CHARACTERISTICS, HISTORICAL CHARACTERS AND RESISTANCE EVENTS HAPPENING IN THE STRUCTURE)
3.1 Vài nét về lịch sử địa phương (A bit of local history).
Ngọc Sơn là tên một đơn vị hành chính cấp phường nằm ở phía Bắc quận Kiến An, phía Bắc giáp xã Trường Sơn (An Lão) và sông Lạch Tray, xã Hồng Thái (An Dương) bên kia sông; phía Tây Nam giáp xã Thái Sơn (An Lão) và phường Bắc Hà cùng huyện; phía Đông Nam giáp phường Phù Liễn; Phía đông giáp phường Trần Thành Ngọ, phía đông nam giáp phường Bắc Sơn và quận Kiến An. Ngọc Sơn chính thức là một phường thuộc quận Kiến An ngày 29 tháng 8 năm 1994. Trước đây là một phường thuộc thị xã Kiến An, diện tích tự nhiên 248 ha, dân số khoảng 8000 người. Trước năm 1945 thuộc tổng Phù Lưu, huyện An Lão, tỉnh Kiến An.
Ngoc Son is the name of a ward-level administrative unit located in the north of Kien An district, bordering on Truong Son commune (An Lao) to the north and Lach Tray river, Hong Thai commune (An Duong) across the river; The Southwest borders Thai Son commune (An Lao) and Bac Ha ward of the same district; the Southeast borders Phu Lien ward; The East borders Tran Thanh Ngo Ward, the Southeast borders Bac Son Ward and Kien An District. Ngoc Son is officially a ward of Kien An district on August 29, 1994. Formerly a ward of Kien An town, natural area is 248 ha, population is about 8000 people. Before 1945, it belonged to Phu Luu canton, An Lao district, Kien An province.
Phường Ngọc Sơn nói riêng và quận Kiến An nói chung, là vùng đất có bề dày lịch sử cách mạng, giàu truyền thống văn hóa, có vị trí hết sức quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. quốc phòng, an ninh thành phố cảng Hải Phòng.
Trong suốt chiều dài lịch sử, người Kiến An rất tự hào về truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, lao động sản xuất, xây dựng bản sắc văn hóa cộng đồng luôn được vun đắp và phát huy. Nghệ thuật truyền thống được bảo tồn như đình Khả Lãm, Đông Khê, Khúc Trì, Lũng Tiên, Đại Giác, Phù Lưu, Trù Khê, Kiến Vũ, đền Tây Sơn, đền Sùng, nhà thờ họ tôn Khúc Trì.
Throughout history, the Kien An people are very proud of their patriotic tradition of fighting against foreign invaders, productive labor, and building community cultural identities that have always been cultivated and promoted. Traditional arts are preserved such as Kha Lam, Dong Khe, Khuc Tri, Lung Tien, Dai Giac, Phu Luu, Tru Khe, Kien Vu communal houses, Tay Son temple, Sung temple, Khuc Tri family church.
Kiến An còn là vùng đất có những danh lam thắng cảnh nổi tiếng:
“Kiến An có núi Ông Voi
Có sông Văn Úc, có đồi Thiên Văn”
Một vùng đất nơi sông núi hội tụ, các yếu tố giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể không ngừng được bảo tồn và phát huy. Chính vì vậy, vùng đất này đã xuất hiện nhiều nhà khoa bảng, danh tướng lừng lẫy một thời. Điển hình là cụ Nguyễn Đan Lương, người thôn Khúc Trì (không rõ năm sinh, mất), phường Ngọc Sơn. Ông đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ (Hoàng Giáp) vào kỳ thi năm Ất Mùi (1535), niên hiệu Đại Chính thứ 6 của nhà Mạc Thái Tông, làm quan với chức Hữu Thị lang Bộ Hộ, cai quản Đông các Hàng, đến đời nhà Minh là Lan Úc (1552 - ?), người làng Qui Túc (nay thuộc phường Phù Liễn) đỗ Tam Giáp Đông Tiến. Ông sinh năm 26 tuổi, học khoa Đinh Sửu (1577), niên hiệu Sùng Khang thứ 12, thời Mạc Mục Tông, lúc đầu làm quan nhà Mạc, sau làm quan đời Lê đến chức Thị lang. Sáng; Cao Toàn (không rõ năm sinh, năm mất, năm thi đỗ), đỗ Thái học sinh tức tiến sĩ (thời Trần), làm quan đến chức Đô Thái Úy.
A land where rivers and mountains converge, tangible and intangible cultural values are constantly preserved and promoted. Therefore, this land has appeared many famous scientists and famous generals for a while. A typical example is Nguyen Dan Luong, from Khuc Tri village (year of birth and death is unknown), Ngoc Son ward. He passed the Second Giap doctorate (Hoang Giap) in the exam in the year of the Goat (1535), the 6th Dai Chinh era of the Mac Thai Tong dynasty. During the Ming dynasty, Lan Uc (1552 - ?), Qui Tuc village (now in Phu Lien ward) passed Tam Giap Dong Tien. Born at the age of 26, he studied at the Dinh Suu faculty (1577), the 12th year of Sung Khang, during the Mac Muc Tong period, at first as a mandarin of the Mac dynasty, then as a mandarin of the Le dynasty to the position of Thi lang. Bright; Cao Toan (unknown year of birth, year of death, year of passing the exam), passed the Thai student ie doctorate (under the Tran dynasty), worked as an official Do Thai Uy.
Truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân Kiến An luôn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời của dân tộc ta. Ngay từ đầu những năm 40 sau Công nguyên, người dân nơi đây đã hăng hái tham gia đội quân của nữ tướng Lê Chân trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống quân Đông Hán xâm lược. Suốt hơn nghìn năm lịch sử từ Đinh - Lê - Lý - Trần Lê, mảnh đất này đã đóng góp cho quê hương nhiều danh tướng, anh hùng dân tộc như: Ba anh em Trương Phan, Trương Di, Trương Thanh (con họ Trương). Đồng Tử và Phùng Thị Trinh, em gái Phùng Hưng) đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng chống quân xâm lược nhà Đường. Rồi Tô Phong, Nguyễn Chính, Vạn Bích, Trần Nhai, Trần Phương, Chiêu Chính công chúa... có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên...
Qua các thời kỳ cách mạng, cán bộ, đảng viên và nhân dân cố Làng Khúc Trì nay thuộc phường Ngọc Sơn nói riêng và nhân dân quận Kiến An nói chung đã đoàn kết, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, trực tiếp tham gia và có nhiều đóng góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, cán bộ, đảng viên và nhân dân làng Khúc Trì xưa, nay thuộc phường Ngọc Sơn nói riêng và nhân dân quận Kiến An nói chung đã đoàn kết, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, trực tiếp tham gia và thực hiện những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
The tradition of fighting against foreign invaders of the people of Kien An is always associated with our nation's long history of nation building and defense. Right from the early 40s AD, the people here enthusiastically joined the army of female general Le Chan in the uprising of Hai Ba Trung against the invading Eastern Han army. During more than a thousand years of history from Dinh - Le - Ly - Tran Le, this land has contributed to the homeland many famous generals and national heroes such as: Three brothers Truong Phan, Truong Di, Truong Thanh (children of the Truong family). ). Dong Tu and Phung Thi Trinh, Phung Hung's sister) participated in Phung Hung's uprising against the Tang invaders. Then To Phong, Nguyen Chinh, Van Bich, Tran Nhai, Tran Phuong, Princess Chieu Chinh... had many merits in the resistance war against Mong - Nguyen...
Through the revolutionary period, the cadres, party members and people of the late Khuc Tri Village, now in Ngoc Son ward in particular and the people of Kien An district in general, have united and overcame countless difficulties, hardships and sacrifices. , directly participated in and made great contributions to the cause of the struggle for liberation, construction and defense of the Fatherland.
Through the revolutionary period, cadres, party members and people of the old Khuc Tri village, now in Ngoc Son ward in particular and the people of Kien An district in general, have united and overcame many difficulties and hardships. sacrificed, directly participated in and made great contributions to the cause of the struggle for liberation, construction and defense of the Fatherland.
Đặc biệt từ khi thành lập, Ngọc Sơn là phường được tách ra từ tiểu khu Ngọc Sơn, gồm: xóm Khúc Trì, khu tập thể 27/1, khu tập thể xí nghiệp Đại Từ và khu tập thể xí nghiệp gỗ Trường Công Định. Đặc điểm của phường là nửa nông nghiệp, nửa đô thị, người dân nơi đây còn nặng nề lối sống nông nghiệp với nghề chính là trồng lúa nước và trồng màu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Từ những năm 2000, do Nhà nước triển khai dự án nâng cấp, cải tạo và mở rộng Trường Đại học Hải Phòng, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, người dân không còn ruộng canh tác, do đó hầu hết các hộ gia đình đã chuyển đổi từ lao động nông nghiệp sang kinh doanh các ngành nghề khác. Ngọc Sơn là một phường có điều kiện thuận lợi về giao thông thủy bộ, có Quốc lộ số 10 (cũ) chạy qua dọc theo sông Lạch Tray nên trở thành một địa điểm hấp dẫn các nhà đầu tư đến sản xuất, kinh doanh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và du lịch dịch vụ, tạo đà cho sự phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân.
Especially since its establishment, Ngoc Son is a ward separated from Ngoc Son sub-area, including: Khuc Tri hamlet, January 27 collective area, Dai Tu factory collective area and Truong Cong Dinh wood factory collective area. . Characteristic of the ward is half-agriculture, half-urban, people here still have a heavy agricultural lifestyle with the main occupations being wet rice cultivation and cash crops, people's lives face many difficulties.
Since the 2000s, due to the State's implementation of the project to upgrade, renovate and expand Hai Phong University, agricultural land is increasingly shrinking, people no longer have cultivated fields, so most households The family has changed from agricultural labor to doing business in other occupations. Ngoc Son is a ward with favorable conditions for water transport, with National Highway No. 10 (old) running along Lach Tray river, so it becomes an attractive place for investors to come to produce and do public business. industries, handicrafts and tourism services, creating momentum for economic development and improving people's living standards.
3.2. Lịch sử nhân vật được thờ (History of worshiped characters)
Đình Khúc Trì, phường Ngọc Sơn thờ 2 vị Thành Hoàng:
Thần hiệu: - Cao Sơn đại vương - Thượng đẳng thần - Quý Minh đại vương - Thượng đẳng thần
Hai ngài đều thuộc bộ tướng tâm phúc của Hùng Duệ Vương
Khuc Tri communal house, Ngoc Son ward worships 2 Thanh Hoang:
Divine title: - Cao Son Dai Vuong - Thuong Dang god - Quy Minh Dai Vuong - Thuong Dang god
Both of you belong to Hung Due Vuong's soul mate
Thần tích chép có đoạn : Sau khi chinh phục quân Thục Phán, các tướng Cao Sơn và Quý Minh ca khúc khải hoàn đem quân về tiền báo tiệp. Trên đường về có rẽ vào trang Khúc Trì, Hoa Khê, Mỹ Khê, Cựu Viên khao thưởng ba quân, cũng là nam phụ lão ấu trong vùng. Sau ngày thanh bình lại cho người đem vàng bạc về các nơi đó chu cấp. Trong Khúc Trì được 10 lạng vàng và 20 lạng bạc để lập sinh từ hai vị. Từ đó dân ở đây tôn hai ông thành hoàng, đời đời cúng tế.
Khi hai ông hóa nhằm ngày 10/2: An Dương Vương biết tin hai ông mất, lấy làm thương tiếc hai bậc trung quân ái quốc của tiền triều, bàn sắc phong hai người tước Đại Vương thượng đẳng thần. Lại ban sắc chỉ cho các nơi hai ngài thường đóng quân để lập đền thờ. Trang Khúc Trì thuộc tổng Văn Đẩu cũng nước duệ hiệu các ngài về thờ, để dân làng hàng năm cúng tế.
Đến các triều Trần và Lê sau này, khi các nhà vua có đem quân đi dẹp giặc qua đây đều vào thắp hương xin các thần âm phù trợ lực, đều được linh ứng . Sau ca khúc khải hoàn, đều ban tặng sắc phong như cũ. Dân làng mỗi khi gặp thiên tai, mất mùa, hạn hán cùng là dịch bệnh cũng đều cầu đảo xin tại qua nạn khỏi, cũng lấy làm linh ứng. Các triều đại kế tiếp sau cũng đều theo lệ cũ mà sắc phong ban tặng. Gặp tuần khánh hạ còn cấp tiền bạc cho các nơi đó để sửa sang đền miếu làm nơi thờ tự.
Từ bấy trở đi đã mấy ngàn năm, dân làng Khúc Trì vẫn nhớ công ơn của hai vị thần, tôn làm phúc thần thành hoàng, phụng thờ hương khỏi không dứt đến ngày nay.
There is a passage in the legend: After conquering the Thuc Phan army, the generals Cao Son and Quy Minh sang triumphant songs to bring their troops back to the army. On the way back, they turned to Khuc Tri, Hoa Khe, My Khe, and Cuu Vien to reward three troops, who are also men, women and children in the region. After the peaceful day, people will bring gold and silver back to those places to provide. In Khuc Tri, there were 10 taels of gold and 20 taels of silver to be born from the two. From then on, the people here honored the two as emperors, forever offering sacrifices.
When the two men turned on February 10, An Duong Vuong learned of the news of their deaths, mourned the two patriotic middle-class soldiers of the previous dynasty, and ordained them to the title of Dai Vuong of the highest rank. Again decreed the places where the two of them often stationed to build temples. Trang Khuc Tri belongs to Van Dau canton, and his descendants come to worship, so that the villagers can make sacrifices every year.
In the later Tran and Le dynasties, when the kings brought troops to defeat the enemy, they all came here to burn incense and ask for help from the gods, they were inspired. After the triumphant song, they all bestowed the same title. Every time the villagers encounter natural disasters, crop failures, droughts and epidemics, they also pray to the island to get over the disaster, also taking it as inspiration. Subsequent dynasties followed the old custom that was bestowed upon them. Meeting the week of the summer, he also provided money for those places to repair temples and shrines.
Since then, for thousands of years, the villagers of Khuc Tri still remember the merits of the two gods, honoring them as the god of the city, worshiping incense unceasingly to this day.
3.3. Những sự kiện lịch sử kháng chiến (Historical events of the resistance war).
Phường Ngọc Sơn là một trong những địa phương của quận Kiến An sớm có phong trào đấu tranh cách mạng.
Ngoc Son ward is one of the localities of Kien An district that soon had a revolutionary struggle movement.
Từ đầu năm 1930, Tỉnh ủy Hải Phòng đã chủ trương phát triển phong trào ra vùng nông thôn Kiến An. Một số cán bộ được phân công về xây dựng cơ sở, đồng chí Trần Công Thái được phái sang hoạt động ở Tỉnh lỵ Kiến An. Đồng chí Trần Khắc Quảng (khóa Nam) về dạy học ở Trực Đào đã trực tiếp xây dựng cơ sở ở đây rồi phát triển sang Cau Hạ, Bát Trang (An Lão), nhưng không lâu, tháng 6 Năm 1930, đồng chí Trần Công Thái bị mật thám Pháp bắt tại bến Niệm. Đồng chí bị tòa án tỉnh Kiến An kết án 15 năm tù khổ sai và 20 năm quản thúc. Nhân dân Kiến An, trong đó có nhân dân làng Khúc Trì, đã xuất hiện các cuộc đấu tranh chống đế quốc phong kiến. Trong các cuộc vận động cách mạng Tháng Tám năm 1945, quân và dân Khúc Trì nói riêng, Kiến An nói chung dưới ngọn cờ của Việt Minh đã nổi dậy giành chính quyền. Ngày 23 tháng 8 năm 1945, Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiến An được thành lập và ra mắt nhân dân dưới chân núi Phù Liễn. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quân và dân làng Khúc Trì cùng với quân và dân toàn tỉnh góp phần tích cực vào cuộc bảo vệ thị xã Kiến An (25/3/1947) gây cho địch nhiều thiệt hại. Tiêu biểu là trận chiến đấu một mất, một còn tại núi Cột Cờ do hai đồng chí Trần Thành Ngọ và Lê Quốc Uy chỉ huy, đã thể hiện ý chí kiên cường của quân và dân Kiến An để bảo vệ mảnh đất quê hương. Thời gian này đình làng Khúc Trì, do địa hình nằm ở vùng ven thị xã, lại gần sông Lạch Tray nên rất thuận lợi cho cán bộ kháng chiến hoạt động. Ngày 20/11/1946, thực dân Pháp đánh chiếm Hải Phòng. Thời kỳ này đình Khúc Trì đã tổ chức đón nhận các cơ quan của chính quyền cách mạng Hải Kiến về Kiến An để xây dựng căn cứ kháng chiến, bước vào công cuộc luyện tập quân sự, thành lập đội du kích, đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ. Nhân dân làng Khúc Trì đã tổ chức đón đồng bào Hải Phòng tản cư sang và phục vụ các lực lượng dân quân, tự vệ, bộ đội chiến đấu trên 3 mặt trận: Cầu Rào, Cầu Niệm, đường 5 An Dương thực hiện tiêu thổ kháng chiến.
From the beginning of 1930, Hai Phong Provincial Party Committee advocated developing the movement to Kien An countryside. Some officials were assigned to build facilities, and Mr. Tran Cong Thai was sent to work in the provincial capital of Kien An. Comrade Tran Khac Quang (Southern course) teaching in Truc Dao directly built a base here and then developed it to Cau Ha, Bat Trang (An Lao), but not long ago, in June 1930, Comrade Tran Cong Thai was arrested by French secret police at Niem wharf. He was sentenced to 15 years of hard labor and 20 years of house arrest by the court of Kien An province. The people of Kien An, including the people of Khuc Tri village, had struggles against the feudal empire. During the August 1945 revolutionary campaigns, the army and people of Khuc Tri in particular and Kien An in general under the banner of the Viet Minh rebelled to seize power. On August 23, 1945, the People's Committee of Kien An province was established and presented to the people at the foot of Phu Lien mountain. During the resistance war against the invading French colonialists, the troops and villagers of Khuc Tri together with the army and people of the whole province actively contributed to the defense of Kien An town (March 25, 1947), causing many losses to the enemy. Typically, the one-on-one battle at Cot Co mountain, commanded by two comrades Tran Thanh Ngo and Le Quoc Uy, demonstrated the tenacious will of Kien An's army and people to protect their homeland. At this time, the communal house of Khuc Tri village, due to the terrain located on the edge of the town, was close to Lach Tray river, so it was very convenient for resistance cadres to operate. On November 20, 1946, the French colonialists occupied Hai Phong. During this period, Khuc Tri communal house organized to receive the agencies of the Hai Kien revolutionary government to Kien An to build a resistance base, enter into military training, establish a guerrilla team, dig secret tunnels. secret rearing cadres. The people of Khuc Tri village organized to welcome the displaced people of Hai Phong to and serve the militia, self-defense forces and soldiers fighting on 3 fronts: Cau Rao, Bridge Niem, and 5 An Duong Street to fulfill their goals. war land.
Ngày 25/4/1947, thực dân Pháp đánh chiếm thị xã Kiến An, cuộc chiến diễn ra rất ác liệt, chẳng bao lâu tỉnh Kiến An trở thành vùng tạm chiếm, Khúc Trì nằm sâu trong vùng địch hậu. Tại Khúc Trì có 3 đảng viên hoạt động; Đồng chí Trần Thành Tân cán bộ công tác dân vận đã hy sinh: đồng chí Trần Khúc Việt cán bộ thông tin tuyên truyền bị địch bắt tháng 6/1950 giam ở hầm nhà thờ Kiến An, đi tù ở Căng Máy Chai, Căng Đoạn Xá Hải Phòng, sau vượt ngục cuối năm 1951 về công tác ở huyện An Lão, Vĩnh Bảo; đồng chí Trần Thế Phiệt cần bộ thông tin tuyền truyền, sau chuyển về công tác tại huyện An Lão. Mặc dù trong hoàn cảnh gay go ác liệt ấy, nhân dân làng Khúc Trì vẫn một lòng thủy chung theo Đảng, bám đất, giữ làng. Các đồng chí Trần Thành Tân và Trần Thế Phiệt đã nhiều lần lưu lại hậu cung đình Khúc Trì và được nhân dân bảo vệ an toàn. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Hải Phòng Kiến An là địa phương ta vào tiếp quản muộn nhất. Vì đây là địa bàn quan Pháp tập kết 300 ngày để chuẩn bị rút khỏi miền Bắc theo quy định của Hiệp định Gioneve.
Ngày 10/5/1955, ta tiếp quản Hải Phòng - Kiến An. Thời gian này đình Khúc Trì lại trở thành trung tâm đón tiếp các đoàn cán bộ từ vùng tự do vào làm nhiệm vụ tuyên truyền, chống lại các âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, thành lập các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, chuẩn bị mọi mặt cho công tác tiếp quản.
Sau ngày tiếp quản, đình Khúc Trì còn là nơi mở các lớp tập huấn ngắn ngày, tổ chức nhiều hội nghị tổng kết công tác của các ngành chức năng tỉnh Kiến An kéo dài đến khi tỉnh xây dựng trường Hành chính, trường Đảng.
Đình Khúc Trì còn là nơi tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân khóa đầu tiên 6/1/1946.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đình Khúc Trì tiếp tục phát huy vai trò là chỗ dựa cộng đồng. Năm 1967, đình bị máy bay Mỹ bỏ bom gây hư hại. Phần còn lại của ngôi đình được dỡ làm trường học.
On April 25, 1947, the French colonialists occupied Kien An town, the war was fierce, soon Kien An province became a temporary occupied area, Khuc Tri was located deep in the enemy's rear. At Khuc Tri, there are 3 active party members; Comrade Tran Thanh Tan, a civil service officer, died: Comrade Tran Khuc Viet, a propaganda and information officer, was captured by the enemy in June 1950, imprisoned in the basement of Kien An church, and imprisoned in Cang May Chai, Cang Doan. Hai Phong Xa, after escaping from prison at the end of 1951 to work in An Lao and Vinh Bao districts; Comrade Tran The Phiet needed a set of information and propaganda, then moved back to work in An Lao district. In spite of that fierce and difficult situation, the people of Khuc Tri village remained faithful to the Party, clinging to the ground and keeping the village. Comrades Tran Thanh Tan and Tran The Phiet stayed in the harem of Khuc Tri's palace many times and were safely protected by the people. In 1954, the resistance war against the French colonialists was successful. Hai Phong Kien An is the locality we take over at the latest. Because this is the area where French officials gathered for 300 days to prepare to withdraw from the North according to the provisions of the Gioneve Agreement.
On May 10, 1955, we took over Hai Phong - Kien An. During this time, Khuc Tri communal house became the center to welcome delegations of cadres from the free zone to carry out propaganda tasks, fight against sabotage plots of hostile forces, establish political organizations, socio-political, preparing all aspects for the takeover.
After the takeover, Khuc Tri communal house was also the place to open short training courses, organize many conferences to summarize the work of functional branches of Kien An province, which lasted until the province built an Administration school, a Party school.
Khuc Tri Communal House is also the place where the National Assembly election and the first term People's Council election were held on January 6, 1946.
During the years of resistance against the US, Khuc Tri communal house continued to promote its role as a community support. In 1967, the temple was damaged by US aircraft bombing. The rest of the house was demolished as a school.
IV. KHẢO TẢ DI TÍCH (REMARKS OF RULES)
Theo lời kể của các cụ cao niên, đình Khúc Trì được khởi dựng từ thời Hậu Lê và tu tạo lần cuối khoảng cuối thế kỷ XIX thời Nguyễn. Đình Khúc Trì xưa, có quy mô, kích thước khá bề thế. Cũng như những ngôi đình truyền thống ở đồng bằng Bắc Bộ, đình Khúc Trì có bố cục mặt bằng hình chữ đinh (J), làm theo kiểu vẫn sàn lòng thuyền, chéo đao tàu góc, 5 gian bái đường và 3 gian hậu cung. Điều đẳng tiếc là ngôi đình vẫn còn tồn tại nguyên vẹn trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Mãi đến năm 1967, khi bom Mỹ làm sạt một phần, phần còn lại bị dỡ lấy vật liệu làm trường học. Ngôi đình hiện nay mới được phục dựng cách đây 3 năm. Đình Khúc Trì hiện nhìn về hướng Tây, đình có bố cục mặt bằng hình chữ J, kết cấu gồm 5 gian bái đường và 3 gian chuôi vồ. Đình xây theo kiểu tường hồi bít đốc, đấu trụ hồi vån.
According to the elders, Khuc Tri communal house was built in the Late Le Dynasty and last renovated around the end of the 19th century under the Nguyen Dynasty. The old Khuc Tri communal house has a rather superficial scale and size. Like the traditional communal houses in the Northern Delta, Khuc Tri communal house has a nail-shaped (J) layout, made in the style of a boat deck, a corner cross, 5 pavilions and 3 harems. . Unfortunately, the communal house still existed intact during the resistance war against the French colonialists. It wasn't until 1967, when American bombs destroyed part of it, the rest was dismantled to make school materials. The present house was restored 3 years ago. Khuc Tri communal house now looks to the west, the communal house has a J-shaped floor plan, the structure consists of 5 pavilions and 3 stalls. The communal house was built in the style of a back wall, with a pillar fighting back.
Phía trước đình là một khoảng sân khá rộng, xung quanh xây tường bao kín. Qua khoảng sân, bước lên bậc tam cấp là vào trong đình. Đình được xây dựng hoàn toàn bằng vật liệu hiện đại là xi măng, cốt thép, từ 3 bộ cửa bức bàn, thượng song hạ bản, có chạm trổ hoa văn tử quý (tùng, cúc, trúc, mai). Mái đình lợp ngói mũi, nền lát gạch bát. Tuy ngôi đình xây dựng bằng chất liệu hiện đại, song đường nét kiến trúc hoa văn vẫn giữ được phong cách nghệ thuật truyền thống. Trước hiện bái đường về phía hai đầu hỏi là 2 trụ biểu tạo thế tay ngại, đầu trụ biểu đắp nghê chầu, đỡ dồi nghề là dấu trụ tạo kiểu đèn lồng, thần trụ vuông khoét lõm, điểm tạo gờ chỉ, mặt trước đắp nổi câu đối chữ Hán, để trụ tạo dáng quả bổng.
In front of the communal house is a rather large yard, surrounded by a wall. Through the courtyard, step up the steps to enter the communal house. The communal house was built entirely with modern materials such as cement, steel, from 3 sets of door panels, upper but lower, with carved patterns (tung, chrysanthemum, bamboo, apricot). The roof of the house is roofed with nose tiles, the floor is tiled with bowl tiles. Although the communal house is built with modern materials, the architectural lines and patterns still retain the traditional artistic style. Before showing the way to the two ends, there are 2 pillars to create a shy hand posture, the top of the pillar is covered with clams, supporting the job is a pillar mark to create a lantern style, a square pillar with a concave hole, a point creating a ledge, the front side is covered. floating couplets in Chinese characters, to create the shape of a ball.
Kiến trúc khung chịu lực của đình gồm 4 hàng chân cột, 4 bộ vì. Kết cấu vì kèo theo kiểu chồng ruồng đốc thước, các vì nách được trổ theo lối chạm thủng với các mảng trang trí tử linh (long, ly, quy, phượng), liên kết giữa các bộ vì là hệ thống xã thượng và xà hạ, các thanh xã này được tạo dáng khá thanh thoát, song vẫn đảm bảo sự chắc chắn cho công trình.
Nóc bái đường chính giữa nóc mái đắp lưỡng long chầu nhật. Hai bức tưởng phía trước của hai gian hồi, trổ thủng chữ thọ cách điệu. Tòa hậu cung 3 gian, 2 bộ vì kèo, kết cấu và đường nét tạo tác hoa văn tương tự như kết cấu của tòa bái đường.
Tiếp giáp với gian hậu cung là 2 bộ cửa nách, chính giữa là bộ cửa lớn gồm các tấm ván ghép tạo thành một bộ cửa lớn, sơn son thếp bạc phủ hoàn kim, trang trí vận tản. Xung quanh của bộ cửa này được trang trí và tạo tác hoa văn khá lộng lấy. Ô phía trên của bộ cửa có chạm nổi hình lưỡng phương chầu cuốn thư, phần ô trên cùng chạm nổi đề tài lưỡng long triều nguyệt.
Nhìn chung, ngôi đình tuy được phục dựng bằng chất liệu hiện đại, nhưng bằng bàn tay khéo léo của những người thợ, đã tạo cho công trình dáng vóc của một ngôi đình làng Việt truyền thống, thể hiện tâm nguyện của nhân dân địa phương.
The architecture of the bearing frame of the communal house consists of 4 rows of columns and 4 sets of columns. The structure of the truss is in the style of stacking, the armpits are carved according to the way of carving with decorative arrays of death (long, ly, turtle, phoenix), linking between the ministries because it is the system of the upper commune and the rafters. In summer, these commune bars are shaped quite elegantly, but still ensure the certainty of the construction.
The roof of the main road in the middle of the roof is covered with two dragons worshiping the sun. The two front pictures of the two pavilions, perforated with stylized word life. The harem with 3 compartments, 2 sets of trusses, textures and patterns are similar to the structure of the temple.
Adjacent to the harem are 2 sets of armpit doors, in the middle is a large set of doors consisting of plywood panels forming a large door, painted with silver gilded gold, decorated with transport. The surrounding of this door set is decorated and created quite splendid patterns. The upper box of the door set has an embossed image of the two sides of the letter, the top part embossed with the theme of two dragons, tides and moons,
In general, the communal house is restored with modern materials, but with skillful hands of the workers, it has created the shape of a traditional Vietnamese communal house, expressing the will of the local people. direction.
V . NHỮNG DI VẬT ĐÁNG QUAN TÂM
Qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, đến nay đình Khúc Trì còn giữ được một số đồ thờ có giá trị niên đại.
* Câu đối: Lòng máng, chữ sơn then với nội dung :
- Nam nhạc giáng thần thân phu tịnh
Hùng triều hổ tướng đệ huynh long
Lạc khoản ghi: Bảo Đại năm thứ 16 (1941)
* Đỉnh đồng: Kiểu vuông, tạo tác hoa văn theo phong cách nghệ thuật thời Nguyễn với đề tài lão trúc.
* Hạc đồng 1 đôi: Cao 0,60m
* Đèn nến đồng 1 đổi: Cao 0,55m
* Thần tượng: Chính giữa cung cầm ở vị trí cao nhất, đặt thần tượng ngài Cao Sơn. Tượng gỗ, tạo tác theo lối tượng tròn, thần tượng dáng vẻ uy nghi, ngự trên sập nhỏ kiểu chân quỳ dạ cả và đặt trong khám lớn sơn son thếp bạc phủ hoàn kim, đầu đội mũ phốc, phía trước mũ chạm nổi lưỡng long châu hoa các mãn khai, mình mặc triều phục, trước bụng thắt đai lớn, giữa đai chạm chìm hình chữ triện, ngực, bụng chạm nổi long vân, chân đi hia, tay phải cầm quạt, tay trái úp trên gối. Tượng có đường nét hoa văn tạo tác mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn cuối thế kỷ XIX.
* Bên phải cung cấm đặt long ngai, bài vị ngài Quý Minh
* Mâm mịch : Chạm nổi, chạm thủng đề tài tử linh, tứ quí dường nét hoa văn mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn đầu thế kỷ 20.
Ngoài ra còn một số đại tự, hoành phi, câu đối, bát hương do nhân dân mới cung tiến gần đây.
VI. SINH HOẠT VĂN HÓA - LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG (CULTURAL ACTIVITIES - TRADITIONAL FESTIVAL)
Cũng như các di tích lịch sử văn hóa trong các làng xã Việt Nam, đình, đền, miếu bao giờ cũng đảm đương chức năng cơ bản của nó. Tôn thờ các vị thành hoàng làng, những người có công với làng, với nước và được tôn vinh thờ phụng. Gắn với các di tích đó theo giờ cũng là các sinh hoạt văn hóa truyền thống.
Sinh hoạt văn hóa lễ hội truyền thống đình Khúc Trì, phường Ngọc Sơn diễn ra vào các ngày âm lịch hằng năm:
- Ngày thánh đản : 15/9
- Ngày thánh hóa : 10/2
- Ngày khánh hạ : 15/8
- Lễ kỳ phúc : 10/2
Lễ phẩm thường dùng cổ chạy và có “thái lao”. Lệ cũ cùng 30 người để tế, đó là nhớ tới 30 người trong "Bản thổ thủ túc" ngày xưa
Hàng năm, các nghi lễ và trò chơi dân gian diễn ra trong khuôn viên di tích. Vào những ngày này, mọi người thường tập trung về đình cùng nhau sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc, đồng thời ôn lại kỷ niệm về những năm tháng hào hùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, những đóng góp và hy sinh của mọi người dân trong cộng đồng.
Những nét đẹp văn hóa truyền thống ấy mãi đong lại trong tâm khám và lan tòa khắp cộng đồng dân cư địa phương, góp phần gìn giữ những thuần phong mỹ tục, có tác dụng động viên mọi người cùng nhau đoàn kết, xây dựng quê hương, xóm phường thêm giàu đẹp.
Like the historical and cultural relics in Vietnamese villages, communal houses, temples and shrines always assume its basic function. Worshiping the village lords who have contributed to the village and country and are honored and worshiped. Attached to those monuments are also traditional cultural activities.
Cultural activities and traditional festivals of Khuc Tri communal house, Ngoc Son ward take place on the lunar calendar every year:
- Holy birthday: September 15
- Sanctification day: 10/2
- Opening day: August 15
- Blessing ceremony: 10/2
Offerings often use running necks and have "thai lao". The old rule with 30 people to sacrifice, that is to remember the 30 people in the old "Bottom of the land"
Every year, folk rituals and games take place on the site of the monument. On these days, people often gather at the communal house to participate in cultural, spiritual and traditional activities of the nation, and at the same time review the memories of the heroic years of the resistance war against the French colonialists. contributions and sacrifices of all people in the community.
These traditional cultural beauties are forever reflected in the heart of the examination and spread throughout the local community, contributing to preserving the fine customs and traditions, encouraging people to unite together and build the countryside. The village and the neighborhood are richer and more beautiful.
VII. GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH (VALUE OF THE RULES)
Mặc dù không còn kiến trúc của ngôi đình cổ kính xưa, song bằng tâm huyết của cả cộng đồng dân cư phường Ngọc Sơn, ngôi đình đã được phục dựng.
Những di sản hiện còn, đình Khúc Trì đã khẳng định được những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của mình. Đó là tượng thờ, đồ thờ, bản thần tích mang đậm nét phong cách nghệ thuật thời Nguyễn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Bên cạnh những giá trị văn hóa đó, đình Khúc Trì còn là một trong những địa điểm cụ thể ghi nhận những sự kiện kháng chiến rất quan trọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương giai đoạn 1946 - 1954. Trong giai đoạn này, di tích là nơi hoạt động của cán bộ nằm vùng kháng chiến, quy tụ quần chúng nhân dân và các lực lượng vũ trang tiến hành cuộc chiến đấu chống lại sự xâm lược và sự chiếm đóng của thực dân Pháp.
Với giá trị nhiều mặt của di tích, đề nghị Hội đồng di tích duyệt, trình UBND thành phố quyết định xếp hạng đình Khúc Trì, phường Ngọc Sơn, quận Kiến An là Di tích lịch sử kháng chiến.
Although there is no longer the architecture of the ancient communal house, with the enthusiasm of the whole community of Ngoc Son ward, the communal house has been restored.
The existing heritages, Khuc Tri communal house has affirmed its tangible and intangible cultural values. They are worshiping statues, worshiping objects, and divine relics bearing the artistic style of the Nguyen Dynasty at the end of the 19th century and the beginning of the 20th century.
Besides those cultural values, Khuc Tri communal house is also one of the specific places to record very important resistance events of the Party Committee, government and local people in the period 1946 - 1954. In this period, the relic is the place of activities of cadres located in the resistance area, gathering the masses and armed forces to fight against the invasion and occupation of the French colonialists.
With the multifaceted value of the relic, it is recommended that the Council of Monuments approve and submit to the City People's Committee for decision to rank Khuc Tri communal house, Ngoc Son ward, Kien An district as a historical relic of the resistance war.
Thành đoàn Hải Phòng