Đền - Chùa Hòa Liễu
29 02 2024
in trang
Hoà Liễu là tên gọi của một trong số thôn làng của xã Thuận Thiên gồm Úc Gián, Xuân Úc và Hoà Liễu. Về tên gọi Hoà Liễu, thuở khai hoang lập lên trang ấp, làng Hoà Liễu có tên là làng Lan Niểu. Các cụ cao niên của làng giải thích sở dĩ có tên gọi này là do có nhiều chim chóc tụ về làng đậu trên cành lan hương thơm dịu mát, ngụ ý là nơi đất lành chim đậu. Lan Niểu ấp sau này được đổi thành Hoà Liễu như ngày nay.
Cùng với quá trình hình thành vùng đất và con người, nhân dân làng Hoà Liễu xã Thuân Thiên đã xây dựng lên những công trình văn hoá cổ truyền đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo đạo Phật và tín ngưỡng tôn thờ Thành hoàng làng. Đó là đền và chùa Hoà Liễu ngày nay. Cả hai di tích cùng toạ lạc trên một khuôn viên đất đai tạo thành một tổng thể kiến trúc hoàn chỉnh.
Đền Hoà Liễu là nơi tôn thờ bà Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, một nhân vật lịch sử thời Mạc, người có công với làng trong việc mở mang, xây dựng làng xã, làm việc thiện giúp dân, giúp đời. Theo thế phả họ Mạc, bà Thái Hoàng Thái Hậu họ Vũ là vợ vua Mạc Đăng Dung. Tên tuổi của Bà đã xuyên suốt cả 3 đời vua Mạc thịnh trị. Bà là người làng Trà Phương, huyện Nghi Dương, xứ Hải Dương, nay là thôn Trà Phương, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy.
Sử liệu chính thống hiện không có thông tin gì về Bà nhưng sử liệu điền dã nhất là các bia nhà Mạc nói về Bà tương đối nhiều. Hai nguồn tư liệu này đều thống nhất ca tụng vị Hoàng Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn “là bậc thánh mẫu của thánh triều, chính vị Đông Trào, hoá thành Nam Quốc sánh đức thánh thiện Đồ Sơn” (văn bia ghi việc trùng tu chùa Bảo Lâm xã Trâu Bộ, huyện Giáp Sơn).
Đền Hoà Liễu có bố cục kiển trúc kiểu chữ nhị. Và tiền đường, gian hậu cung một gian hai dĩ với mái đao cong làm bằng gỗ lim. Không gian hậu cung đền có các đồ thờ tự lộng lẫy vàng son, rất cổ kính linh thiêng. Tiền đường mới được dựng, hậu cung được trùng tu lại khoảng thế kỷ 20. Gian hậu cung được xây theo kiểu chồng diêm hai tầng sáu mái, vì kèo kiểu giá chiêng, đội ván mê, trang trí trong đền rất đơn giản.
Chùa Hoà Liễu tên chữ là Thiên Phúc tự,gồm gian tiền đường và hậu cung. Hậu cung xây theo kiểu chồng diêm hai tầng mái, mái lợp ngói mũi hài. Không gian kiển trúc bên trong là nơi bài trí các pho tượng phật
Trong khu di tích đền và chùa Hoà Liễu, xã ThuậnThiên hiện còn bảo lưu, gìn giữ được nhiều di vật mang phong cách nghệ thuật của nhiều thời kỷ lịch sử. Đặc biệt là các di vật thời Mạc tạc bằng chất liệu đá gồm pho Tam thế, hai pho tượng Phật Quan thế âm và Đại thế chí, đôi sấu đá trước của chùa. Còn ở đền có các di vật mang phong cách nghệ thuật thời Mạc rất tiêu biểu như tấm bia đá Thiên Phúc tự dựng vào đời vua Mạc Phúc Nguyên. niên hiệu Quang Bảo năm 1561, tượng bà Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, cột đá “thạch trụ” …
Tượng Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn được chạm nổi khối cao nhưng dựa lưng vào long bia, chiếm cả chiều cao và chiều sâu của “động”. Tượng thể hiện một phụ nữ quý phái nhưng chân chất đôn hậu ngồi tĩnh toạ, hở nửa lòng bàn chân trái, tóc chải đầu trần, tai dài đeo hoa nhỏ, vai rất xuôi mặc áo dài hở ngực lộ rõ yếm thiên y trang trí hoa cúc và dây lưng kép toả xuống hai bên.
Tượng Tam thế có kích thước gần bằng người thật, đầu tượng chia làm hai phần, phần trên là S (tiếng phạn là Usnisa tướng thứ 32 của phật, bồ tát, tướng này do lòng kính thuận sư trưởng mà mọc ra, biểu hiện cho trí tuệ, sự giác ngộ phật pháp của người tu hành), “nhục kế” nằm trên đỉnh đầu, bao bọc xung quanh “nhục kế” và đầu tượng là những cụm tóc xoăn ốc. Đỉnh của “nhục kế” là vô kiến đỉnh tượng trưng cho tính sang quý, trí tuệ công quả và sức mạnh chân tâm vi diệu của nhà phật. Mặt tượng trái xoan hơi thót phía dưới, đó là khuôn mặt mang nhiều yếu tố nữ: tai dài dầy hơi chảy, nguyệt mi cong, sống mũi thẳng, mắt khép hờ hơi nhìn xuống. Miệng ngậm môi hơi thoáng một nụ cười hàm tiếu. Nhìn chung, vẻ mặt toát lên sự nhẹ nhàng đôn hậu, ít nhiều có nét thực của tượng chân dung và phần nào lột tả được ý nghĩa soi rọi nội tâm của người tu hành. Vẻ đẹp của tượng tam thế, trước hết là sự nhấn mạnh ngôn ngữ tạo hình của điêu khắc tượng tròn. Các khối lồi lõm cứ đối nhau, người xưa khéo léo dùng một số mảng chìm để tôn lên các mảng nổi chủ đạo. Trên tổng thể đài sen được làm gần như vuông để nhấn mạnh độ chắc khoẻ của khối tạo hình, tượng phát triển về chiều ngang với bộ ngực nở nang, cặp vú căng nhô đầy sức sống và thân thon gần như thắt lưng cong. Đặc biệt với lối tạo hình thoải mái, không câu lệ, không gò bó, sôi nổi mà tươi tắn phồn thực, tượng tam thế rất gần gũi với tâm thức về vẻ đẹp của người phụ nữ lưu truyền trong dân gian.
Qua nghiên cứu các di vật, bia ký, đã cung cấp nguồn tư liệu quý giá về bối cảnh kinh tế xã hội thời Mạc hồi thế kỷ 16. Vào thời gian này, các ông hoàng bà chúa, các vị quận công chức sắc đã công đức khá nhiều tiền của vào việc dựng chùa, tạc tượng, đúc chuông nhất là trên địa bàn huyện Kiến Thụy, quê hương của vương triều Mạc. Làng Hoà Liễu từ lâu đã nổi tiếng là một địa phương còn gìn giữ được nhiều thuần phong mỹ tục.Trước đây, ở Hoà Liễu còn có ngôi miếu thờ vị Thành hoàng làng là “Long Vân thiên Quang Đại Vương”. Ngày lễ của làng, sau lễ cúng thần còn có lễ hội Minh thề.Ngoài ra, ở đây còn có phong tục ứng xử cao đẹp với người già. Nhiều sinh hoạt văn hoá dân gian tại địa phương như tế lễ, giao hiếu, bơi trải, hát đúm vẫn còn được bảo lưu, gìn giữ đến ngày nay.
Di tích chùa Hoà Liễu còn gắn với một lễ hội khá nổi tiếng trong vùng đó là lễ hội Minh thề. Vào giữa thế kỷ 16, Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, vợ Thái tổ Mạc Đăng Dung đã đến lập ấp Lan Niểu (thôn Hoà Liễu ngày nay). Bà tự bỏ tiền và vận động hoàng thân quốc thích, quan lại triều Mạc góp tiền để tu tạo lại ngôi chùa cổ. Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn cùng nhân dân đã lập ra hội Minh Thệ, trong đóvăn thệ quy định những điều phải làm, được làm và những điều không được làm cho tấtcả các thành phần từ hương chức đến dân thôn về đạo đức lối sống, phếp tắc ứng sử trong cộng đồng. từ đó công đức của Thái Hoàng Thái Hậu được nhân dân lập đền tạc tượng ghi ơn. Lễ hội được tổ chức từ ngày 14-16 tháng giêng âm lịch hàng năm.
Sau nghi lễ tế thần trang nghiêm dân làng và quan khách tập trung ở sân đình thành một vòng tròn đường kính 2m. Giữa đài thề đặt một bàn thờ nhỏ hướng vào cửa đình, chủ lễ là các vị đại diện chức sắc, chức dịch và đại diện dân làng là một người có uy tín. Chủ lễ dâng hương xong, vị đại diện tư văn dõng dạc đọc hịch văn, trong đó có đoạn: “tất cả chức sắc chức dịch, bô lão và nhân dân; từ kẻ sĩ đến nhà nông trong hương thôn, ai dùng của công xây dựng việc công xin thần linh ủng hộ, ngược lại người nào lấy của công về làm việc tư xin thần linh đả tử y như lời thề”. Mọi người tham dự cùng hô vang : “y như miệng thề” với thái độ trang nghiêm. Đọc xong chủ lễ cầm dao bầu cắm xuóng đài thề tỏ rõ quyết tâm. Tiếp theo là lễ cắt tiết gà hoà vào bình rượi để mọi người cùng uống biểu thị sự cam kết gĩư đúng lời thề trước thần linh và bá tánh.
Hội Minh Thệ mang nét độc đáo, đậm đà sắc thái văn hoá dân tộc, mang tính đời thường nhưng lại có mục đích giáo dục đạo lý, nhân cách sâu sắc thông qua tín ngưỡng thần linh để minh chứng cho việc làm trong sáng của mọi người trong làng y như lời “Miêng Thệ”.
Năm 1993,di tích đền, chùa Hoà Liễu, xã Thuận Thiên được xếp hạng di tích cấp quốc gia.
Hòa Liễu là một làng quê cổ kính có nhiều di tích và huyền thoại với những tục lệ đậm đà sắc thái văn hóa dân tộc. Nhân dân Hòa Liễu có một tập tục rất hay đó là Lễ “Minh thề” được tổ chức trọng thể tại Miếu thờ thành hoàng bản thổ kết hợp giữa tín ngưỡng với giáo dục đạo lý nhân cách. Hàng năm cứ vào ngày 24 tháng chạp âm lịch lễ “Minh Thề” được tổ chức. Dân gian gọi là “Miêng thệ” lời thề miệng.
Trước khi khai mạc “Hội thề” dân làng tế thánh tại miếu chính thường có chức dịch hàng tổng, quan lại hàng phủ về dự chứng kiến. Các nghi lễ được tiến hành trang trọng, gồm chủ lễ và các vị bồi lễ đọc chúc văn lai lịch công đức của thánh vương. Sau đó làm lễ dâng hương, dâng rượu, dâng nước trong tiếng nhạc bát âm réo rắt. Tế thần xong các bô lão, quan khách và dân làng, chức dịch quần áo chỉnh tề tập trung quanh sân miếu theo thứ bậc. Chủ tế dùng động tác “Chỉ trời vạch đất” mô phỏng theo phép biến trong kinh dịch rồi vẽ một vòng tròn lớn đường kính khoảng 2m ở giữa sân miếu gọi là “Đài thề”, trước “Đài thề” đặt một bàn thờ hướng về cửa miếu thâm nghiêm. Ba vị đại diện cho hàng ngũ chức dịch, hội tư văn và bô lão trong làng do ban tổ chức lễ hội thề và hội đồng bô lão tuyển chọn bước lên “Đài thề” làm lễ thắp hương khấn vái trời đất bách thần. Đại diện tư văn dõng dạc đọc “Minh thề” có hịch văn…. Mọi người trong làng từ hương chức đến nhân dân, trên là bô lão, dưới từ 18 tuổi trở lên, ai dùng của công dùng vào việc công xin thần linh ủng hộ, ai lấy của công dùng vào việc tư, cầu thần linh đả tử… làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, xin thần linh tru diệt. Lời thề ấy vang lên trong hội thề Hòa Liễu hàng năm đã góp phần tạo dựng lên đạo lý “Chí công vô tư” tinh thần tận trung, tận hiếu để dân làng quê Hòa Liễu đứng vững trước mọi thử thách cam go trong lịch sử trường tồn.
Sau khi mọi người cùng hô vang câu “Y như lời thề” hoặc “Y như miệng thề” vị chủ tế cầm dao bầu cắm mạnh xuống trong vòng tròn “Đài thề” để biểu thị sự quyết tâm. Tiếp đến là nghi lễ cắt tiết gà để uống máu ăn thề diễn ra rất cầu kì theo một quy định truyền thống từ ngàn đời. Máu gà trống được hòa vào bình rượu lớn, mỗi người truyền tay nhau uống một ngụm khẳng định sự đoàn kết thực hiện đúng lời thề.
Từ khi đất nước được hoàn toàn giải phóng và thống nhất, hội làng truyền thống dần dần được khôi phục nhất là sau khi Đền và Chùa làng được công nhận là di tích lịch sử.
Hội “Minh thề” làng Hòa Liễu là một sinh họat văn hóa tinh thần bổ ích, giúp cho bà con thêm yêu quê hương, đất nước, tình làng nghĩa xóm thêm gắn bó. Sau lễ hội “Minh thề” trang nghiêm, dân làng Hòa Liễu lại bước vào lao động sản xuất với tâm hồn thanh thản như đã rũ bỏ được ưu tư, phiền muộn trong năm, giúp thêm sức mạnh và niềm vui trong năm mới.
- Nguồn gốc: Lễ hội Minh Thề - Lễ hội thề chống tham nhũng, đã có từ xa xưa, nay được khôi phục lại từ năm 2003 tại Đền – Chùa thôn Hòa Liễu, xã Thuận Thiên (Kiến Thụy, Hải Phòng). Đây là khu di tích lịch sử cấp Quốc gia đã được xếphạng.
Lễ hội diễn ra trong 3 ngày 14,15,16 tháng Giêng, đã thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân địa phương cũng như các quan chức làng xã trên địa bàn huyện. Có từ hơn 500 năm nay, Lễ hội Minh Thề là nơi những quan lại, chức sắc, công bộc tuyên thề sẽ công tâm, không tư túi, tham nhũng của công; không dùng quyền uy để chèn ép bóc lột của dân, không bao che tội phạm… Người dân đến với lễ hội cũng không phải mong lấy chữ danh lợi, mà là để tự nguyện sẽ giữ lòng trung thực, ngay thẳng.
Các nghi lễ được tiến hành trang trọng, chủ lễ và các vị bồi lễ đọc chúc văn lai lịch công đức của Thánh vương. Sau đó làm lễ dâng hương, dâng rượu, dâng nước trong tiếng nhạc bát âm truyền thống. Tế Thần xong, các bô lão, quan khách và dân làng, chức dịch, quần áo chỉnh tề tập trung quanh sân miếu theo thứ bậc.
Chủ tế dùng động tác “chỉ trời vạch đất” mô phỏng theo phép biến trong Kinh dịch rồi vẽ một vòng tròn lớn, đường kính khoảng 2m ở giữa sân miếu gọi là Đài thề. Trước Đài thề đặt một bàn thờ hướng về cửa miếu thâm nghiêm.
Ba vị đại diện cho hàng ngũ chức dịch, hội tư văn và bô lão trong làng do Ban Tổ chức lễ hội thề và hội đồng bô lão tuyển chọn bước lên Đài thề làm lễ thắp hương khấn vái trời đất bách thần. Đại diện tư văn dõng dạc đọc Minh Thề có Hịch văn. Mọi người trong làng từ hương chức đến nhân dân, trên là bô lão, dưới từ 18 tuổi trở lên, ai dùng của công dùng vào việc công xin thần linh ủng hộ, ai lấy của công dùng vào việc tư, cầu thần linh đả tử… làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, xin thần linh tru diệt.
Sau khi mọi người cùng hô vang câu “y như lời thề” hoặc “y như miệng thề”, vị chủ tế cầm dao bầu cắm mạnh xuống trong vòng tròn Đài thề để biểu thị sự quyết tâm. Tiếp đến là nghi lễ cắt tiết gà để "uống máu ăn thề" diễn ra rất cầu kì theo một quy định truyền thống từ ngàn đời. Tiết gà trống được hòa vào bình rượu lớn, mỗi người truyền tay nhau uống một ngụm khẳng định sự đoàn kết thực hiện đúng lời thề.
Sau lễ hội Minh Thề trang nghiêm, dân làng Hoà Liễu như được tiếp thêm sức mạnh, rũ bỏ mọi ưu phiền của một năm qua để tiếp tục bước vào năm mới, với niềm tin tưởng những điều tốt đẹp đang chờ ở phía trước. Lễ hội Minh Thề không chỉ lưu giữ giá trị văn hóa truyền thống và các phong tục tốt đẹp của địa phương, mà còn mang ý nghĩa tích cực, cao đẹp, giáo dục đạo đức, nhân cách con người.
Admin