CHÙA DƯ HÀNG, PHƯỜNG HỒ NAM, QUẬN LÊ CHÂN
11 03 2023
in trang
Chùa Dư Hàng có nguồn gốc từ thời Tiền Lê (980-1009). Cuối thời vua Lê Đại Hành đã có vị sư tổ đến đây thuyết pháp, khai sáng giáo lý nhà Phật. Đến thời Trần (1225-1400), các vị sư tổ thiền phái Trúc Lâm do Trần Nhân Tông sáng lập ở Yên Tử Sơn, đã có mối quan hệ với bản chùa Dư Hàng. Vì vậy, từ xưa đến nay, chùa Dư Hàng vẫn truyền lệ kỷ niệm sinh nhật vị sư tổ đệ nhất “Đền ngự giác hoàng tinh tuệ thiền sư” tức vua Trần Nhân Tông vào ngày 02/11 âm lịch. Vị tổ thứ 3 của phái Trúc Lâm là thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái vào ngày 3/11 Âm lịch. Đến đời vua Lê Gia Tông (1672), sư cụ Nguyễn Đình Sách (tự là Chân Huyền) đã xuất hiện tiền để tậu ruộng đất, làm chùa to rộng, có đủ gác chuông, nhà thờ tổ, nhà tăng… Từ đó trở đi, dù phải trải qua bao thăng trầm lịch sử, ngôi chùa đã được thế hệ hoà thượng, tăng ni, tín đồ phật tử sở tại chung sức, chung lòng sửa sang chùa ngày thêm khang trang, đẹp đẽ.
Kiến trúc
So với nhiều ngôi chùa thờ phật ở Hải Phòng, chùa Dư Hàng có kiến trúc bề thế, khuôn viên hoàn chỉnh, gồm toà phật điện 7 gian, gác chuông cao 3 tầng, mái công vút, quả chuông đồng cỡ lớn, chữ đề: “Phúc Lâm tự chung”, nghĩa là chuông chùa Phúc Lâm.
Ngôi chánh điện có kiến trúc hình chữ “Đinh”, hai bên là nhà Tổ, phía trước là cổng chùa và gác chuông. Gác chuông có 5 gian, 3 tầng, bên trong treo quả đại hồng chung “Phúc Lâm tự chung”. Từ ngoài nhìn vào, bên trái ngôi chánh điện là nhà Tổ, nhà trai và nhà tăng; bên phải là nhà thờ hậu, thư viện, phòng truyền thống. Sân trước ngôi chánh điện tôn trí tượng Bồ tát Quán Thế Âm lộ thiên và đặt một đỉnh lớn bằng đồng.
Điện Phật được bài trí tôn nghiêm, thờ tượng: Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn, Thích Ca Tam Tôn, tòa Cửu Long ở hương án giữa; các ban thờ: Hộ Pháp, Thập Điện Minh Vương, Tôn giả A Nan và Trưởng giả Cấp Cô Độc. Chùa có nhiều pho tượng cổ có giá trị mỹ thuật như bộ tượng Tam Thế Phật, tòa Cửu Long, Thập Điện Minh Vương; và nhiều hoành phi, câu đối, bao lam có đường nét mềm mại, kỹ thuật tinh xảo, mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn; nổi bật là bức chạm lộng ở chánh điện do các nghệ nhân Hà Nam Ninh tạc vào năm 1917.
Trong vườn tháp, có 9 ngôi tháp mộ, trong đó, có 3 ngôi bảo tháp của Trúc Lâm Tam Tổ thời Trần (Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang), ba ngôi tháp Phổ Đồng và ba ngôi tháp của các vị trụ trì tiền nhiệm. Đặc biệt, chùa mới xây dựng tháp Đa Bảo cao 21m và vườn tượng.
Vườn tượng nằm bên phải gác chuông, giữa vườn là một hồ nước rộng. Ở đây, chùa tôn trí lộ thiên tượng đức Phật Thích Ca bằng đồng màu vàng ngồi thiền định trên tòa sen dưới gốc cây bồ đề cao lớn, tượng Bồ tát Di Lặc bằng đồng trong tư thế đứng và tượng 10 vị đại đệ tử của đức Phật tạc bằng đá trắng.
Giá trị lịch sử
Là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia được xếp hạng từ năm 1986.
Du khách tới đây tìm hiểu về lịch sử ngôi chùa có nguồn gốc hàng nghìn năm với nhiều giá trị về kiến trúc và văn hóa gắn với truyền thống đạo Phật của người phương Đông. Là một ngôi chùa nhưng nơi đây từng diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trong thời kháng chiến. Đặc biệt, năm 1926 đông đảo tăng ni, phật tử cùng học sinh, thầy giáo, thợ thuyền lao động tập trung tại chùa Dư Hàng làm lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh, khi cả nước được tin cụ mất tại Sài Gòn. Đây là một sự kiện quan trọng, gắn liền với phong trào đấu tranh yêu nước, đòi quyền dân sinh, dân chủ. Cũng tại chùa này, Hội Tăng già cứu quốc Hải Phòng đã làm lễ ra mắt sau Cách mạng tháng Tám (1945). Đây cũng là điểm tổ chức “Tuần lễ vàng“, đồng thời các đoàn thể quần chúng cách mạng họp bàn việc đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Pháp trở về, ghé thăm đồng bào, chiến sĩ Hải Phòng. Lịch sử cũng ghi nhận trong suốt 9 năm kháng chiến, chùa Dư Hàng mở rộng cửa thiền nuôi giấu cán bộ, ủng hộ kháng chiến qua phong trào “áo ấm mùa Đông” cho binh sĩ, lương thực nuôi quân. Đặc biệt, có nhiều vị tu hành ở chùa hăng hái tòng quân cứu nước, tiêu biểu có cố hòa thượng Đinh Quang Lạc được trao tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Chùa đã được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1986.
Cho đến nay, dù phải trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, ngôi chùa đã được các thế hệ hòa thượng, tăng ni, tín đồ phật tử sở tại chung sức, chung lòng sửa sang, gìn giữ, trông coi để chùa ngày thêm khang trang, đẹp đẽ.
Thành đoàn Hải Phòng