CỤM DI TÍCH ĐỀN CHỢ GIÁ - NƠI LƯU GIỮ NHIỀU GIÁ TRỊ VĂN HÓA TÂM LINH
22 02 2023
in trang
Tọa lạc bên dòng sông Giá thơ mộng và hiền hòa, đền Chợ Giá (Huệ Ðức Trinh Linh từ), nằm trong quần thể cụm di tích đền Chợ Giá và đền Mỹ Giang, thuộc xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp thành phố. Trải qua bao năm tháng phong sương, đến nay sau lần trùng tu lần thứ ba, ngôi đền được khánh thành quy mô, tương xứng với những giá trị tâm linh và giá trị lịch sử - văn hóa quý giá...
Đền Chợ Giá, nơi thờ bà Phổ Thị Huyền, người có công âm phù giúp vua Lý đánh giặc. Theo thần tích làng Mỹ Giang, bà đã nhiều lần hiển linh giúp dân cứu nước, diệt tai trừ họa. Thần phả nơi đây còn ghi vào đời vua Lý Nhân Tông có giặc phương Bắc từ biển phạm vào bờ cõi nước ta, chúng đóng quân ở bên Bạch Ðằng giang và An Lâm Thị. Nhà vua đã thân chinh cầm quân đánh giặc, đại quân đóng ở Mỹ Cụ trang. Khi nhà vua đến trang Mỹ Giang, thuộc huyện Thủy Ðường (tức làng Mỹ Giang, xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên ngày nay) thì tạm nghỉ ở chùa cạnh chợ Giang Tân (tức chợ Giá ngày nay).
Nửa đêm, vua nằm mơ thấy một người con gái trẻ kiều diễm xin được theo quân "âm phù trợ lực" và giới thiệu hai người em trai văn võ toàn tài giúp vua đánh giặc. Tỉnh dậy, nhà vua liền sai triệu tập các bô lão và dân chúng quanh vùng An Lâm Thị hỏi về gia đình họ Phổ và tìm gặp anh em sinh đôi nhà này là Phổ Hóa, Phổ Hộ, có một chị gái là Phổ Thị Huyền đã mất từ năm 16 tuổi. Hỏi về kế sách đánh giặc, cả hai trả lời rất lưu loát và nguyện xin được tòng quân giúp nước. Nhà vua vui mừng giao cho hai ông cầm quân bộ tả hữu tiên phong cùng cánh quân thủy của tướng Ðoàn Thượng tiến quân đánh giặc và giành đại thắng. Trong bữa tiệc khao quân, nhà vua đã ngẫu hứng làm thơ: "Nhất triều tụ hội hoán tinh thần/ Trẫm thị Nương quân ngộ nghĩa thần/ Trinh nữ nhất tiêu hồn mộng báo/ Mỹ Giang hương hỏa ức niên xuân". Ðây cũng là bài thơ đã được tạc vào bia đá, để ở đền thờ Phổ Gia tại đầu chợ Giá.
Thắng xong giặc dữ, nhà vua ban thưởng dân làng ba trăm quan tiền để xây đền thờ bà Phổ Thị Huyền và truyền cho người dân trong vùng đời đời hương hỏa. Sau đó, hai ông Phổ Hóa và Phổ Hộ được phong là Hộ Công Vi Tả Bật Nguyên soái và Hữu Bật Nguyên soái Ðại tướng quân và được xây đền thờ (nay là đền Mỹ Giang, xã Kênh Giang). Theo ngọc phả, đền được xây dựng ngay trên ngôi đất có thế "chân long", nơi hai đức Phổ Hóa và Phổ Hộ quy tiên. Ðến thời triều Nguyễn, bà Phổ Thị Huyền được truy phong là Bản Cảnh Thành Hoàng - Huệ Ðức Trinh Linh, Phổ Thị Huyền Càn Quý Lương Phạm Ðình Quân Công chúa.
Giá trị lịch sử - văn hóa quý giá của cụm di tích, Ðền Mỹ Giang chạy dài, nằm tựa lưng vào núi, "long phục, hổ chầu", chứa nhiều yếu tố tâm linh. Gian chính của đền thờ hai ông Phổ Hộ và Phổ Hóa. Còn đền Chợ Giá, quanh năm rợp bóng mát dưới tán lá của năm cây cổ thụ, được Hội Bảo vệ môi trường Hải Phòng công nhận là "cây di sản" bao gồm: một cây đa 330 tuổi, ba cây bồ đề cùng hơn 300 tuổi, một cây thị hơn 200 tuổi. Năm cây cổ thụ, tán lá xum xuê quây quần che chở xóm làng như linh khí đất trời tụ lại, càng tạo thêm vẻ linh thiêng. Nhẹ lật từng trang sử liệu, những người cao niên của làng không giấu được tự hào khi ngôi đền vẫn lưu giữ nhiều giá trị lịch sử vô giá, trong đó đặc biệt phải kể đến bảy sắc phong của triều Nguyễn.
Vùng đất Kênh Giang là một trong 37 xã và thị trấn của huyện Thủy Nguyên. Người xưa khi chọn thế đất "sinh cơ lập nghiệp" thường coi trọng: "nhất cận thị, nhị cận giang". Ngay từ buổi sơ khai, các trang Mỹ Giang, Trại Kênh và Trà Sơn đã có vị thế "sơn thủy sùng diện", núi không cao mà có phù sa đắp lại và sông Giá (một nhánh của dòng sông Bạch Ðằng oai hùng lịch sử) vốn mang vẻ đẹp "tiện nghi tương thắng, cảnh vật phong quang". Ðiều đặc biệt là vị trí đền Chợ Giá lại sát cạnh chợ Giá, hội tụ đủ bốn yếu tố linh thiêng: "Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ, tứ cận sơn" (gần chợ đông, sông rộng, đường lớn, núi cao) và đã được sách Ðại Nam nhất thống chí nhắc đến, trong khi dân gian cũng lưu truyền câu ca dao: "Nhất cao là núi U Bò/ Nhất đông chợ Giá, nhất to sông Rừng". Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, xưa kia nơi đây luôn nhộn nhịp trên bến dưới thuyền, ngày nay, tuy chợ không đông như trước, nhưng nếp xưa vẫn được người dân nơi đây giữ gìn, trân trọng.
Trải qua hơn 900 năm với bao thời gian mưa nắng xói mòn, chiến tranh giặc giã đã làm cho ngôi đền chỉ còn phế tích. Từ năm 2001, Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Kênh Giang cùng tín khách thập phương đã tổ chức tôn tạo, xây dựng lại quy mô tương xứng với giá trị tâm linh, giá trị lịch sử- văn hóa quý giá. Ðặc biệt, lần trùng tu thứ ba, từ năm 2015 đến nay, những nét kiến trúc cũ được phục dựng, những công trình mới xây dựng hài hòa với cảnh quan thiên nhiên phong thủy hữu tình. Và ngôi đền linh thiêng đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân.
THẦN TÍCH BA VỊ ĐẠI VƯƠNG – ĐỀN NGHÈ
Thần phả Đền Nghè Mỹ Giang được Nguyễn Bính - Viện Đông Các Đại Học sĩ thời Hồng Đức viết và Nguyễn Hiền - Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh hiệu đính vào năm Vĩnh Hựu thứ 2 chép rằng:
Vào Triều Lý, nước Việt ta có các bậc công thần dựng nước, lập công lớn nên được phong tước và rất linh ứng. Thần tích Ba vị Đại Vương được ghi chép lại trong Quốc Triều Lễ Bộ.
Thời Vua Hùng dựng nước, hiệu là Bách Việt, thiên hạ thái bình, đến khi có loạn 12 sứ quân đất đai bị phân chia rối loạn. Đến thời Vua Đinh Tiên Hoàng trị vì, nước Nam lại thu về một mối. Nhà Lê kế vị trải qua được 3 đời, đóng đô ở Hoa Lư. Sau chuyển sang nhà Lý. Triều Lý kéo dài 216 năm, trải qua 8 đời. Trong đó Vua Lý Thánh Tông thực là trời phú, trí tuệ thông minh, văn võ song toàn, chăm dắt muôn dân thanh bình cực lạc, ai ai cũng khen là đấng Minh Quân. Lúc đó ở phủ Hạ Hồng, huyện Gia Phúc, trang Thung Độ có vị tù Trưởng họ Đoàn tên gọi là Huệ, lấy vợ cùng huyện tên là Lê Thị Kính, phu thê cầm sắt nhịp hòa, thường làm việc thiện tích đức. Hai, ba năm mà chưa có con, ông bà cùng nhau cầu đảo chốn linh thiêng, ít lâu sau bà Kính có thai sinh ra một bọc có ba nam, một nữ. Rồi bỗng nhiên hai nam, một nữ mất tích, ông bà nuôi dưỡng người con trai còn lại đến khi trưởng thành đặt tên là Đoàn Thượng (tức Thượng Công). Năm 15 tuổi, Huệ Công ngắm con diện mạo phi thường, thân hình cao lớn, xin cho con đi học thầy họ Phạm ở Trang Định Quốc. Chẳng bao lâu Bách gia chi sự Thượng Công đều thông suốt, sĩ tử cùng trang lứa đều kính phục và hâm mộ ông.
Vào giờ Mão, ngày 10 tháng 3, Huệ Công đột nhiên chết, mộ táng trên đất thân rùa tại Bản Trang, Thượng Công mồ côi cha sống cùng mẹ ở Trang Thung Độ, mẹ con bán nước chè xanh làm kế mưu sinh. Hai năm sau, bỗng có giặc Nguyễn Ngao tự xưng Ngụy tướng mang 30 vạn quân xâm lấm địa giới giang đầu, chúng đóng quân ở Bạch Đằng Giang và An Lâm Thị. Đất nước thái bình đã lâu, nay có giặc nên triều đình lo sợ. Vua bèn triệu tập văn võ bá quan cùng bàn tính kế sách và hạ chiến xuất quân dẹp giặc. Ngài đích thân cầm quân xuất trận. Khi qua Thung Độ, gặp Thượng Công diện mạo khác thường, vua bèn triệu tập người trong bản hỏi rõ về Thượng Công. Sau khi nghe dân kể rõ cội nguồn, vua cho gọi Thượng Công đến bảo rằng “Nay đất nước có giặc xâm lấn, Người là sứ trời sai khiến, hãy mang tài ra cứu nước cho trẫm”. Thượng Công sau khi yết kiến vua liền xin phép thân mẫu theo vua dẹp giặc.
Thượng Công cùng tướng lĩnh nhà vua tiến thẳng đến sở cứ quân giặc ở Bạch Đằng Giang và An Lâm Thị. Đại quân đóng tạm ở Mỹ Cụ trang. Vua cùng một số tướng tiên phong đi thị sát và cắm trại tạm nghỉ ở Chợ Giang Tân (Chợ Giá ngày nay). Đây đều là những nơi sơn lâm bí địa. Buổi sáng dậy, vua cho mời các vị bô lão để hỏi về gia đình họ Phổ. Được biết ở Bản Trang có gia đình Phổ Danh Nguyên, vợ là Hoàng Thị Bích sinh hạ được ba người con, một nữ, hai nam. Người nữ tên là Phổ Thị Huyền, hai nam sinh đôi là Phổ Hóa và Phổ Hộ. Vua liền xa giá đến nơi gặp anh em họ Phổ. Sau khi tiếp xúc, vua thấy hai vị khôi ngô tuấn tú, tướng mạo khác thường, thông thuộc văn võ thì mừng lắm, liền giao cho hai ông cùng chỉ huy cánh quân bộ, cùng với cánh quân thủy do Đoàn Thượng chỉ huy tiến quân đánh địch. Giáp binh một trận, quân giặc thấy uy tướng của ba ông đều kinh sợ bỏ chạy, quân ta thừa thắng truy đuổi, giết và bắt vô số. Tướng giặc Nguyễn Ngao bị bắt sống. Vua vui mừng tổ chức tiệc khao quân ngay tại Bản Trang. Trong bữa tiệc vua mới giải thích với dân làng và quân sĩ rằng: “Đêm ngủ ở Chợ Giang Tân, Vua mơ thấy người con gái đẹp, mi thanh mục tú đến bên giường vua và nói rằng: Để Vua phải lỗi khó nhọc này là tội ở thần dân. Thiếp là Phổ Thị Huyền, người ở Bản Trang, bố là Phổ Danh Nguyên, mẹ là Hoàng Thị Bích, sinh hạ được ba chị em. Thiếp không may yểu mệnh mất sớm, hai em sinh đôi của thiếp là Phổ Hóa và Phổ Hộ. Thiếp xin tiến cử hai em trai với Vua để giúp Vua giải được lỗi khó nhọc này”. Giấc mộng đã linh ứng. Tiếp đó nhà vua đọc bài thơ:
“Nhất triều tụ hội hoán tinh thần
Trẫm Thị Lương quân ngộ nghĩa thần
Trinh nữ nhất tiêu hồn mộng báo
Mỹ Giang hương hỏa ức niên xuân”
Đồng thời, Vua ban cho dân làng 100 quan tiền để lập đền thờ bà Phổ Thị Huyền ở bến sông Chợ Giang Tân (Chợ Giá ngày nay).
Tiếp đó, Vua ban cho Đoàn Thượng Công là Đô Thống Quản đốc Đại tướng quân, phong cho ông Phổ Hóa là Vi Hữu Bật Nguyên soái Ðại tướng quân, Phổ Hộ là Vi Tả Bật Nguyên soái Đại tướng quân.
Sau đó, ba ông đều hộ tống vua về triều đình. Đất nước thanh bình, Thượng Công xin vua cho về thăm gia đình ở Trang Thung Độ, nơi gò đất thân rùa rồi hóa ngay ở đó. Hôm đó ngày 29 tháng 9, nhân dân dâng biểu tấu triều đình, vua truyền an táng Ngài tại đó, có ngũ nhạc lai triều.
Lại nói: Sau khi hai ông Phổ Hộ, Phổ Hóa nhậm chức cũng xin vua về thăm quê hương tại Trang Mỹ Giang. Khi thăm tiền đường ngày ấy là ngày mùng 1 tháng 10, hai ông qua bến đò Vạn Tân, trời nổi gió mưa lớn, hai ông bị chìm dưới khúc sông ấy. Hai, ba ngày sau dân Bản Trang thấy xác hai ông trôi trên dòng nước, dạt vào khe nhỏ mắc lại ở Hồ Oa (gọi là Hốc Oa) kết thành ngôi mộ, địa hình cong thế rồng chầu, sau gọi là đất Châu Long, nhân dân dâng biểu tấu vua, vua ban cho dân bản 200 quan tiền và truyền Bản Trang lập miếu thờ chỗ các Ngài hóa để thờ phụng mãi mãi. Đây chính là nơi tọa cảnh Giáp Hương Quý Ất, trước đây là Hồ Oa tụ thủy, là nơi địa linh. Vua phong Thượng Công là Quản Lĩnh Đô Thống Đại Tướng Quân - Quyền xưng Đông Hải Uy Linh - Hách dịch Thượng Thượng Đẳng Đại Vương; Phổ Hộ là Vi Tả Bật Nguyên soái - Đại tướng quân Dũng Trặc Thượng Đẳng Đại Vương; Phổ Hóa là Vi Hữu Bật Nguyên soái - Đại tướng quân Uy Vũ - Thượng Đẳng Thần.
Hiện nay, bản đền còn giữ được 12 sắc phong của các đời vua. Nơi đây chính là linh hồn, là niềm tự hào của dân làng và địa phương.
Thành đoàn Hải Phòng