ĐỀN LONG SƠN, PHƯỜNG NGỌC XUYÊN, QUẬN ĐỒ SƠN

22 03 2024

in trang

Đền Long Sơn là công trình tín ngưỡng mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa sâu sắc, mặc dù phần kiến trúc đã được tu sửa, xây dựng lại nhưng đền có lịch sử hình thành từ lâu đời (tương truyền từ thời Lý) và gắn bó mật thiết với vùng đất, con người phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn.

1. Tên gọi di tích

Đình, miếu và đền là những công trình tâm linh, tín ngưỡng quan trọng trong đời sống tinh thần của mỗi làng quê Việt Nam. Trong đó, ngôi đền là không gian linh thiêng thờ vị thần bảo trợ của cộng đồng làng xã, thờ những nhân vật, những anh hùng dân tộc đã có công đức với quê hương, dân tộc. Đến Long Sơn, phường Ngọc Xuyên cũng là công trình được xây dựng với chức năng, ý nghĩa như vậy. Tên ngôi đền được gọi theo địa danh nơi di tích toạ lạc là khu Núi Rồng (Long Sơn).

Do đền tôn thờ Cô Chín là thần chủ và nơi đây cũng gắn liền với truyền thuyết về suối Rồng, nên đền còn được gọi là đền Cô Chín Suối Rồng.

Tên gọi thống nhất trong hồ sơ di tích là: Đền Long Sơn, phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.

2. Địa điểm và đường đến di tích

2.1. Địa điểm

Đền Long Sơn toạ lạc phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.

Ngọc Xuyên là địa phương có truyền thống lịch sử, văn hoá. Trải qua ngàn năm lịch sử, đất và người nơi đây đã chứng kiến biết bao biến đổi, thăng trầm, các thế hệ nối tiếp nhau lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, không chỉ đương đầu với thiên nhiên khắc nghiệt mà còn anh dũng, kiên cường trong chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước, viết lên những trang lịch sử đáng tự hào,

2.2. Đường đến di tích

Đến Long Sơn cách trung tâm thành phố Hải Phòng 23.4 km. Từ trung tâm thành phố Nhà hát thành phố) đến di tích, chúng ta có thể đi theo hai tuyến đường giao thông gồm tuyến qua đường tỉnh 353; tuyến qua đường đường Cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, quốc lộ 5B.

- Để đến di tích nhanh nhất, chúng ta đi từ Nhà hát thành phố, theo đường Quang Trung, đi vào đường Mê Linh để sang đường Hồ Sen - Cầu Rào 2. Qua cầu Rào 2 rẽ phải để vào đường Phạm Văn Đồng (đường tỉnh 353). Tiếp tục di chuyển 14 km rồi rẽ phải để vào đường Lý Thánh Tông, đi tiếp khoảng 1.6 km rồi rẽ phải để vào đường Suối Rồng, đi thêm 0.8 km nữa sẽ đến đền Long Sơn nằm bên trái đường Suối Rồng.

3. Phân loại di tích

Căn cứ Luật Di sản văn hóa ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa ngày 18 tháng 6 năm 2009;

| Căn cứ Điều 11, Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ về phân loại di tích;

Căn cứ kết quả khảo sát, nghiên cứu về di tích của cán bộ phòng Nghiệp vụ và Quản lý di tích, Bảo tàng Hải Phòng;

| Bảo tàng Hải Phòng xác định đền Long Sơn, phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng là Di tích lịch sử.

4. Sự kiện, nhân vật lịch sử, đặc điểm của di tích

4.1. Sự kiện, nhân vật lịch sử

Hiện nay, đền Long Sơn thờ Cô Chín và hệ thống các vị thần trong tín ngưỡng thờ tam phủ, tứ phủ (gồm Mẫu Thượng Thiên, mẫu Địa, mẫu Thoải, mẫu Nhạc và ngũ vị tôn ông, tam vị quan hoàng). Trong đó nhân vật cô Chín là tín ngưỡng thờ chính – thần chủ.

Về nhân vật cô Chín gắn liền với truyền thuyết về suối Rồng: “Tương truyền, xa xưa có người con gái xinh đẹp tên là cô Chín. Cô sinh ra và lớn lêntrong một gia đình giàu sang quyền quý. Một ngày nọ, thấy tiết trời đẹp, cô Chín cho người dong thuyền du ngoạn trên biển. Khi qua vùng biên gân làng Ngọc Tuyền (nay là phường Ngọc Xuyên) thì bỗng giông bão nổi lên, thuyên bị đắm. Sau đó, gia đình cô Chín cho người đi tìm. Khi đến khu vực suối Rông ngày nay, thấy khăn đại, xiêm áo của cô nằm trên vách đá. Khi lấy lên, bông từ khe đá tuôn ra dòng nước trong lành, mát lạnh chảy mãi không ngừng. Điều lạ lùng hơn cả, nguồn nước ấy mát vào mùa hè, ấm vào mùa đông và chưa bao giờ cạn nước dù thiên tai, hạn hán. Người dân địa phương từ đó thường đến chân núi Ngọc lấy nước suối Rồng mang về dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Đặc biệt, nước suối Rồng khi đem nấu lên, hãm với lá chè xanh trồng trên núi Ngọc thì vô cùng ngon, ngọt”.

Sau khi cô Chín hoá thì cô luôn hiển ứng linh thiêng phù giúp nhân dân trong ngoài địa phương nên được nhân dân lập đền thờ cô trên vách núi cạnh suối rồng.

| Việc thờ cô Chín là một tín ngưỡng đặc sắc của cư dân Đồ Sơn, Hải Phòng. Đây cũng là một dạng thức thờ nữ thần khá phổ biến ở Đồ Sơn như: Tín ngưỡng thờ Bà Đế ở đền Bà Đế; thờ Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương ở 3 làng Bàng Động, Phụ Lỗi và Tiểu Bàng xã Bàng La; hay việc tôn vinh ngọn núi cao nhất trong 9 ngọn núi của Đồ Sơn là Mẫu Sơn (tức núi Mẹ).

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, tín ngưỡng thờ nữ thần ở vùng biển Đồ Sơn, cũng như tín ngưỡng thờ cô Chín ở đền Long Sơn là tín ngưỡng bản địa và có lịch sử hình thành từ khá sớm, cũng như tín ngưỡng thờ các nữ thần ở Việt Nam đều có nguồn gốc và lịch sử thờ tự từ lâu đời.

| Tín ngưỡng thờ cô Chín có từ lâu đời và được cộng đồng nhân dân Ngọc Xuyên duy trì và phát huy đến tận ngày nay. Sự linh thiêng hiển ứng của cô Chín được minh chứng bằng các hoạt động tín ngưỡng, lễ bái, cầu mưa thuận gió hòa, sóng yên biển lặng, nhân khang vật thịnh của đông đảo người dân địa phương và khách thập phương.

Tín ngưỡng thờ cô Chín ở Ngọc Xuyên gắn liền với truyền thuyết về suối Rồng, nên người dân địa phương quen gọi đền thờ cô Chín là đền cô Chín suối Rồng. Cũng còn gọi là đền Long Sơn - Long Sơn linh từ do liên quan đến vị trí toạ lạc trên núi Rồng (Chín ngọn núi tạo thành hình rồng của Đồ Sơn).

4.2. Đặc điểm lịch sử của di tích

Đền Long Sơn có lịch sử hình thành từ lâu đời. Ban đầu là một ngôi miếu nhỏ (người dân thường gọi là miếu Cô) được xây dựng từ các chất liệu tự nhiên sẵn có trong địa phương gồm: đá, đất, mái lợp gianh. | Tương truyền, đền được dựng từ thời Lý. Đến thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII, XVIII), thời Nguyễn (thế kỷ XIX, XX) được mở rộng và tu sửa khang trang hơn với mái lợp ngói. Điện thờ vào thời gian này được bài trí với bạn trên thờ Tam toà thánh Mẫu; phía dưới, chính giữa thờ cô Chín.

Năm 2007, đền được tu sửa khang trang như hiện nay.

 5. Sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng liên quan đến di tích

Trong một năm, tại đền Long Sơn, bản đền cùng nhân dân địa phương tổ chức các ngày lễ thánh như:

- Ngày mùng 9 tháng 1 âm lịch: Hầu khai hội đầu Xuân của bản đền;

- Ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch: Lễ mẫu Liễu Hạnh. Trong lễ nghi có tổ chức hầu đồng với các giá hầu chúa Thượng Ngàn, cô Thượng Ngàn, hầu cô Bơ, hầu quan lớn dưới biển;

- Ngày 20 tháng 8 âm lịch: Tiệc cha (tức ngày giỗ Đức thánh Trần Hưng Đạo);

- Ngày mùng 9 tháng 9 âm lịch: Là ngày Khánh tiệc cô Chín.

Trong đó, mùng 9 tháng 9 là ngày lễ quan trọng của bản đền và được chuẩn bị từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 9.

Ngày mùng 2 tháng 9, tổ chức hầu khai hội. Sau đó trong cả một tháng, các thanh đồng hội tụ về đền hầu thánh.

Lễ vật dâng thánh gồm có lễ tam sinh (gà, ngan, lợn), xôi, hoa quả, trầu, rượu, bánh trái...

6. Khảo tả di tích

Đền Long Sơn quay về hướng Bắc, nằm tựa lưng dưới chân núi Rồng - một trong chín ngọn núi của dãy Cửu Long thuộc bán đảo Đồ Sơn. Bên cạnh đền có dòng suối Rồng quanh năm nước chảy, một nhánh của suối được bắc ống chảy vào sân đền, vừa làm nguồn nước mát lành cho du khách thập phương sử dụng vừa là nơi “tụ thuỷ” cho công trình. Phía trước đền có đình Ngọc Xuyên, bên trái đến cách khoảng 0,3 - 0.6 km có đền Mẫu Ngũ Phương và chùa tháp Tường Long tạo thành tổng thể cụm di tích tôn giáo - tín ngưỡng của địa phương. Không gian quanh di tích đảm bảo được sự hài hoà, gần gũi giữa kiên trúc tín ngưỡng và khu dân cư.

Đền có bố cục mặt bằng kiểu chữ Đinh (J), gồm toà bái đường và hậu cung. Toà bái đường có mặt bằng hình chữ nhật, gồm ba gian hai chái, kết cấu kiểu chồng diêm hai tầng tám mái. Thành phần chịu lực của của toà bái đường là bộ khung gỗ lim với cấu kiện chính là các bộ vì kiểu bốn hàng chân cột, hai hàng cột cái và hai hàng cột quân. Tất cả các cột đều được kê trên những chân tảng bằng đá xanh có chạm khắc cánh sen.

Ở bái đường, hai hàng cột cái vươn lên đỡ tầng mái trên. Vì nóc tại gian giữa có kết cấu kiểu chồng rường với mỗi vì có hai rường suốt và hai trường cụt chồng lên nhau, các rường cụt đỡ rường suốt thứ hai kế trên cột câu đầu. Vì nóc

hai gian bên và các vị nách bái đường đều có cùng một kiểu thức là vì ván mê với các tấm ván dày được đặt khớp mộng vào cột, câu đầu và xà nách để đỡ các hoành mái và tạo diện trang trí. Liên kết dọc bái đường là hệ thống xà nối các bộ vì với nhau thành hệ khung vững chắc, thân và bào trơn không trang trí.

Hệ thống bao che của bái đường làm hoàn toàn bằng gỗ và được trổ cửa kiểu thượng song hạ bản ở cả ba mặt để tiện việc dâng hương của du khách, tạo điều kiện cho ánh sáng, không khí lưu thông...

| Hệ mái của bái đường làm kiểu hai tầng tám mái lợp ngói mũi hài. Bờ nóc đắp trang trí lưỡng long chầu hổ phù. Hai đầu bờ nóc đặt hai kìm nóc. Về công năng kỹ thuật, những con kìm này có tác dụng chặn giữ bờ nóc, tránh cho công trình khỏi bị hư hại khi có gió lùa từ hai đầu hồi. Các góc đạo được đắp các hình rồng, phượng, lân cách điệu bằng vôi vữa.

| Hậu cung gồm hai gian, xây kiểu tường hồi bít đốc và được nối vuông góc với bái đường tại khoảng giữa, tạo nên mặt bằng chữ Đinh. Hậu cung đền có hại vì nóc, vì nóc phía trong được làm kiểu ván mê, vì nóc phía ngoài được làm kiểu chồng rường. | Điêu khắc, trang trí trên các cấu kiện kiến trúc của đền Long Sơn được tập trung chủ yếu ở toà bái đường. Đề tài thể hiện ở đây rất phong phú, đa dạng như rông, chim, thú, tứ linh, tứ quý hay các biểu tượng tự nhiên như vân xoăn, đạo mác... Rồng là đề tài chủ đạo, chiếm số lượng lớn trong các bộ phận trang trị của đền. Hình tượng rồng kết hợp với vận xoắn uốn lượn mềm mại được chạm khắc dày đặc tại các bẫy hiên, con rường từ vì nóc xuống vì nách. Hình rông chạm trên các đầu dư có thân mập với mắt tròn lồi, miệng ngậm ngọc, bờm tóc dài dạng đuôi nheo bay ngược ra sau che phủ lấy thân. Tại các vì nóc, vì nách kiểu ván mê ở bái đường, hay trên vì nóc kiểu ván mê ở hậu cung đều được chạm nổi hổ phù, rồng, phượng, rùa, hoa lá kết hợp cùng các biểu tượng bát bửu, hoa cúc, mai, cây tùng với những bông lớn, nhiều lớp cánh, thân cây vừa có nét gân guốc vừa có sự mềm mại. Phần cổ diêm và hệ thống cửa của bài đường được chạm khắc trang trí hình chim phượng, rùa đôi hạc cùng các đề tài tứ linh, tứ quý...

Mặc dù mới được trùng tu, tôn tạo vào năm 2007, song đền Long Sơn được xây dựng trên cơ sở kiến trúc truyền thống với nguyên liệu chính là gỗ lim. Đền có quy mô kiến trúc thuộc loại trung bình, nhưng nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên các cấu kiện kiến trúc đa dạng và mang ảnh hưởng của phong cách nghệ thuật truyền thống đầu thế kỷ 20 khá rõ rệt. Điểm nổi bật của nghệ thuật chạm khắc trên kiến trúc đền Long Sơn là sự đồng điệu không chỉ ở tất cả các thành phần kiến trúc, mà ở cả kỹ thuật chạm khắc và đề tài trang trí. Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp, sự uy nghi và linh thiêng của di tích, giúp di tích trở thành ngôi nhà chung, là chốn sinh hoạt văn hoá tinh thần của cộng đồng dân cư địa phương và du khách.

7. Một số di vật, cổ vật, đồ thờ tự tiêu biểu thuộc di tích Đền Long Sơn hiện nay còn lưu giữ được một số di vật, cổ vật như:

- Tượng: tượng làm bằng gỗ, bị bong lớp sơn thếp, mất phần thân dưới và chỉ còn từ thắt lưng trở lên. Tượng đội mũ xung thiên, mặt tròn, mũi nở, tại to, miệng cười mỉm hiền lành. Tượng mặc áo thụng cổ tròn, gắn bổ tử trước ngực, cổ áo đính 3 bông cúc mãn khai, hai tay tượng chắp vào nhau và luồn dưới dây thao thắt trước bụng (với kiểu tay này có thể đoán định tượng được tạc theo thể đang đứng hầu). Niên đại khoảng thế kỷ 18.

- Tượng cô Chín: tượng cao 1.17m nặng 0.5 tấn, chất liệu đồng và được dát vàng toàn thân. Tượng có khuôn mặt tròn đầy phúc hậu, các chi tiết trên mặt tương đều rạng rỡ với lông mày cong thanh, mắt sáng, mũi dọc dừa, môi dầy, tại to, cổ cao ba ngấn. Toàn thân được tạo bằng những mảng khối căng đầy, tròn lẳn, bố cục đóng kín, đường viền rõ ràng. Tượng ngồi buông hai chân trên bục, lưng thẳng, tay phải cầm quạt, tay trái đặt trên gối trái kết ấn giáo hoá, ấn này mang ý nghĩa thuyết phục, giảo hoá đạo pháp cho chúng sinh.

| - Khám thờ: số lượng 01, chất liệu gỗ, sơn son thếp bạc. Bệ khám làm kiểu sập thờ, chân quỳ, trang trí hổ phù, rồng mây, hoa lá thiêng; thân khám được bưng kín ba mặt bằng ván gỗ, chỉ có mặt trước khám chia thành ba cánh cửa chạm chữ “thọ” với y môn chạm rồng chầu mặt nhật, văn triện, tứ quý, hoa dây..., mái khám kiểu ván trần làm chéo xuống từ trước ra sau. | - Long ngai: số lượng 05, chất liệu gỗ, sơn son thếp vàng, trên cùng là tay ngai ôm lấy lưng rồi chạy ra hai bên phía trước, tay ngai như thân của đôi rồng, đầu tay ngai được chạm hai đầu rồng trong tư thế vươn cổ ra phía trước. Thân ngai có sáu trụ con tiện chia đều hai bên để đỡ tay ngai. Bệ ngai tạo kiểu chân quỳ giật tam cấp thót dần lên, trong các cấp bệ được chạm khắc các đề tài chim thiêng, hoa cúc, hổ phù.

8. Giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ của di tích

8.1. Giá trị lịch sử văn hóa:

Đền Long Sơn là công trình tín ngưỡng mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa sâu sắc, mặc dù phần kiến trúc đã được tu sửa, xây dựng lại nhưng đền có lịch sử hình thành từ lâu đời (tương truyền từ thời Lý) và gắn bó mật thiết với vùng đất, con người phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn.

Đền tôn thờ cô Chín, một tín ngưỡng đặc sắc của cư dân Đồ Sơn, Hải Phòng. Đây cũng là một dạng thức thờ nữ thần khá phổ biến ở Đồ Sơn như: Tín ngưỡng thờ Bà Đế ở đền Bà Đế; thờ Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương ở 3 làng Bàng Động, Phụ Lỗi và Tiểu Bàng xã Bàng La; hay việc tôn vinh ngọn núi cao nhất trong 9 ngọn núi của Đồ Sơn là Mẫu Sơn (tức núi Mẹ). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, tín ngưỡng thờ nữ thần ở vùng biển Đồ Sơn, cũng như tín ngưỡng thờ cô Chín ở đến Long Sơn là tín ngưỡng bản địa có từ gần ngàn năm trước, | Tín ngưỡng thờ cô Chín có từ lâu đời và được cộng đồng nhân dân Ngọc Xuyên duy trì và phát huy đến tận ngày nay. Sự linh thiêng hiển ứng của cô Chín được minh chứng bằng các hoạt động tín ngưỡng, lễ bái, cầu mưa thuận gió hòa, sóng yên biên lặng, nhân khang vật thịnh của đông đảo người dân địa phương và khách thập phương.

| Đền Long Sơn còn là nơi trình diễn lễ Hầu đồng - Hát văn, một trong những thực hành liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại ngày 01/12/2016. Lê Hầu đồng - Hát văn tại đền Long Sơn luôn được tổ chức chu đáo, bài bản, đúng quy cách, thu hút được đông đảo nhân dân địa phương và du khách gần xa đến tham gia. Từ đó, giúp góp phần tăng cường vị trí, vai trò của di tích đối với cộng đồng, làm giàu thêm bức tranh đa dạng văn hóa của địa phương, tăng thêm niềm tự hào và sự tích cực tham gia, đóng góp của cộng đồng trong công tác bảo tồn và phát huy phát huy giá trị của di tích.

8.2. Giá trị khoa học, thẩm mĩ:

| Đền Long Sơn được xây dựng trên cơ sở kiến trúc truyền thống với nguyên liệu chính là gỗ lim. Nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên các cấu kiện kiến trúc tại đền tương đối đa dạng và mang phong cách nghệ thuật truyền thống triều Nguyễn đầu thế kỷ 20.

- Theo dòng chảy của lịch sử kiến trúc truyền thống, kiến trúc đền Long Sơn không đơn giản chỉ là chỗ để thờ cúng mà còn mang trong mình những giá trị nghệ thuật đặc sắc. Những mảng chạm nổi, chạm chìm, chạm kênh bong với kỹ thuật tinh mỹ trên các con rường, bộ vì, đầu dư hay hệ thống cửa của di tích đền Long Sơn với các đề tài phong phú, đa dạng như rồng, chim, thú, tứ linh, tứ quý hay các biểu tượng tự nhiên như vẫn xoắn, đao mác... không chỉ có giá trị nghệ thuật cao, mà còn cho biết một cách khá cụ thể về bước đi của lịch sử kiến trúc truyền thống, lịch sử mỹ thuật truyền thống thời Nguyễn đầu thế kỷ 20.

Đền Long Sơn dù mới được tôn tạo, với kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc tinh xảo mang phong cách triều Nguyễn đầu thế kỷ 20, đã góp phần vào việc trùng tu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản kiến trúc gỗ truyền thống.

9. Thực trạng bảo vệ và phát huy giá trị di tích

- Kiến trúc công trình được dựng theo kiểu thức truyền thống, cổ kính, phù hợp với chức năng của một ngôi đền, quy mô kiến trúc trung bình với ba gian hai chái bái đường, hai gian hậu cung đã đáp ứng tốt hoạt động đón tiếp du khách đến dâng hương, tổ chức các nghi lễ, nghi thức trong lễ hội truyền thống hàng năm.

- Điện thờ được bố trí khoa học, đảm bảo được tính linh thiêng và tham mỹ cao.

- Thủ nhang di tích và cộng đồng người dân địa phương vẫn duy trì được hoạt động tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm.

- Khuôn viên di tích rộng thoáng, cảnh quan môi trường sạch, đẹp, có nhiều cây xanh lâu năm.

 

Thành đoàn Hải Phòng

Thong ke