Người Thanh niên xung phong năm ấy

12 11 2025

in trang

Hồi ký Những năm tháng sống và làm việc ở đơn vị Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước Đơn vị: N57 – 575 – P24, Lạng Sơn

Hồi ký

Những năm tháng sống và làm việc ở Đơn vị Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước

Đơn vị: N57 – 575 – P24, Lạng Sơn

Vào buổi chiều ngày 25 tháng 7 năm 1965, chúng tôi – đoàn thanh niên xung phong huyện Kinh Môn lên chuyến tàu tốc hành từ ga Cẩm Giàng, Hải Dương, hướng về Lạng Sơn. Chuyến đi kéo dài từ 3 giờ chiều đến sáng hôm sau. Trên những toa tàu chật chội nhưng tràn đầy tinh thần quyết tâm. Đoàn gồm gần 203 cán bộ, đoàn viên, trong đó xã Hiệp Sơn có 13 đồng chí tham gia. Nhiệm vụ của chúng tôi là mở tuyến đường Lạng Sơn – Đồng Đăng – Hữu Nghị, một công trình chiến lược quan trọng phục vụ vận chuyển hàng hóa và quân nhu cho chiến trường miền Nam.

Khi đến thị xã Lạng Sơn, chúng tôi được tổ chức phân công vào các tiểu đội, bố trí cư trú tại những bản làng gần tuyến đường. Ngày hôm sau, từng đồng chí được nhận dụng cụ, phương tiện phục vụ công việc: cuốc, xẻng, xe bò, xe cút kít, xảo, cáng… Những dụng cụ tưởng chừng đơn giản nhưng đối với chúng tôi, đó là những “vũ khí” để chiến đấu với núi rừng và tảng đá cứng như sắt.

Hằng ngày, công việc bắt đầu từ 6 giờ sáng đến 11 giờ 30, nghỉ trưa một tiếng rưỡi, buổi chiều tiếp tục từ 13 giờ 30 đến 18 giờ. Khi bước vào chiến dịch, chúng tôi làm việc suốt đêm để thông đường cho các xe vận chuyển hàng từ cửa khẩu, đảm bảo không làm gián đoạn tuyến vận tải phục vụ chiến trường miền Nam. Những ngày hè, nắng cháy da, chúng tôi phải tìm những tán cây hay bụi rậm để nghỉ tạm, tránh cái nóng thiêu đốt. Vào mùa đông, núi rừng Lạng Sơn lạnh thấu xương, nhiều ngày nhiệt độ xuống dưới 0 độ. Đêm đến, chúng tôi phải nhóm lửa trong các thùng phi để sưởi ấm, mỗi gian trại một thùng.

Công việc mở đường gian khổ vô cùng. Có những đoạn đường phải mở rộng đến 10–15 mét, đá cứng như sắt. Chúng tôi dùng chông sắt dài 1,5–1,8 m đục sâu vào tảng đá, đôi bàn tay sưng vù, chảy máu, nhưng không ai bỏ cuộc. Khi làm việc ngoài mặt đường bê tông nóng ran dưới nắng, đá bám vào chân khiến xương tím tái, nhưng nhìn thấy con đường dần hình thành, chúng tôi quên đi mệt nhọc.

Cuộc sống sinh hoạt cũng thiếu thốn đủ bề. Chúng tôi ăn nghỉ tạm bợ ngoài trời, sinh hoạt cá nhân chỉ đủ cơ bản. Các đồng chí nữ càng gặp nhiều khó khăn hơn trong sinh hoạt hằng ngày. Thế nhưng, mọi gian khổ, mệt nhọc ấy không làm chúng tôi chùn bước. Ngược lại, tinh thần đồng đội, ý chí quyết tâm và nhận thức về sứ mệnh lịch sử đã giúp chúng tôi vượt qua tất cả. Chúng tôi biết rằng, công việc mình làm không chỉ là mở đường, mà còn là góp phần làm nên lịch sử, phục vụ đất nước.

Từ năm 1968, được sự quan tâm của Đảng và Trung ương Đoàn, một số đồng chí TNXP được cử đi làm việc trong các ngành nghề chuyên môn ở trong nước và cả nước ngoài. Tôi cùng các đồng chí nam giới tiếp tục tham gia giải phóng miền Nam. Sau ngày 30/4/1975, trở về quê hương, chúng tôi tiếp tục sinh hoạt trong Hội cựu TNXP xã, phường, duy trì tinh thần đoàn kết và nhắc nhở nhau về những năm tháng gian khổ nhưng đầy tự hào ấy. Những năm tháng sống và làm việc tại Đơn vị Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước không chỉ là những tháng ngày lao động vất vả, mà còn là những trải nghiệm về tinh thần, ý chí, và lòng yêu nước sâu sắc. Chúng tôi, những đoàn viên trẻ, đã cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử.

Admin

Thong ke